Bản án 112/2020/HS-ST ngày 13/10/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 112/2020/HS-ST NGÀY 13/10/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2020/HSST ngày 29 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 31/2020/HSST-QĐ ngày 24/9/2020 đối với bị cáo:

NGUYỄN XUÂN H, sinh năm 1967. Nơi ĐKHKTT: Tổ 14 (xóm Tân Tiến cũ), phường Dân Chủ, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Dân tộc: Mường. Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Hưu trí. Là Đảng viên ĐCS Việt Nam, hiện bị đình chỉ sinh hoạt đảng theo Quyết định số 156 ngày 16/3/2020 của UBKT Thành ủy Hòa Bình. Con ông Nguyễn Huy T và bà Hà Thị L. Có vợ là Nguyễn Thị Hải V (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2002. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tạm giam từ ngày 15/3/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên toà.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đặng Văn C – Văn phòng luật sư Chính Pháp – Đoàn luật sư TP Hà Nội. (Có mặt)

* Người bị hại:

1. Ông Bùi Duy H1, sinh năm 1955. Thường trú tại: xóm Vố, xã Kim Bôi, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. (Có mặt)

2. Bà Bùi Thị Đ, sinh năm 1963. Thường trú tại: khu Đoàn Kết, thị trấn Bo, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. (Có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Bùi Văn M, sinh năm 1961 (chồng bà Đ). Thường trú tại: khu Đoàn Kết, thị trấn Bo, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. (Vắng mặt)

2. Chị Bùi Thị Lo L, sinh năm 1989 (con bà Đ). Thường trú tại: khu Đoàn Kết, thị trấn Bo, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. (Vắng mặt)

3. Bà Quách Thị H2, sinh năm 1957 (vợ ông H1). Thường trú tại: xóm Vố, xã Kim Bôi, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. (Vắng mặt)

4. Anh Bùi Tiến Đ1, sinh năm 1990 (con ông H1). Thường trú tại: xóm Vố, xã Kim Bôi, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. (Vắng mặt)

5. Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1971 (em bị cáo H). Thường trú tại: Tổ 14, phường Dân Chủ, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. (Có mặt)

* Người làm chứng:

1. Ông Quách Thanh L2, sinh năm 1952. Thường trú tại: xóm Lạng, xã Kim Bình, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. (Vắng mặt)

2. Ông Phạm Văn C1, sinh năm 1952. Thường trú tại: xóm Bo, xã Kim Bình, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quá trình công tác trong ngành Công an các năm 2016 đến 2017 Nguyễn Xuân H giữ chức vụ Phó trưởng phòng hồ sơ Công an tỉnh Hòa Bình. Mặc dù bản thân không được giao chức năng, nhiệm vụ tuyển dụng công chức, viên chức vào cơ quan Nhà nước, nhưng để có tiền chi tiêu cá nhân và giải quyết việc gia đình, lợi dụng vào vị trí công tác bị cáo đã thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới hình thức nhận tiền xin việc làm, cụ thể:

- Vụ thứ nhất: Khoảng đầu tháng 12/2016 thông qua ông Quách Thanh L2 nên ông Bùi Duy H1 có con trai là Bùi Tiến Đ1 (Chiến sỹ phục vụ có thời hạn trong lực lượng công an), sau khi xuất ngũ có nhu cầu xin việc đã quen biết Nguyễn Xuân H. Qua giới thiệu của ông L2 là Nguyễn Xuân H có khả năng xin việc nên khoảng đầu tháng 12/2016 ông H1 cùng ông L2 đã đến phòng làm việc của H tại tầng 10, trụ sở công an tỉnh Hòa Bình đặt vấn đề nhờ H xin việc cho con trai là Bùi Tiến Đ1 vào làm lái xe cho cơ quan Nhà nước hoặc lái xe cho Công ty, Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. H đồng ý nhận lời và ông H1 đã giao cho H số tiền là 100.000.000 đồng. Khoảng 10 ngày sau ông H1 tiếp tục giao cho Hải số tiền 35.000.000 đồng. Tổng số tiền ông H1 giao cho H là 135.000.000 đồng với mục đích để H xin việc làm cho anh Bùi Tiến Đ1. Cả hai lần giao tiền trên hai bên không viết giấy tờ gì. Đến ngày 30/12/2016 ông H cùng vợ là Quách Thị H2 đến gặp H để yêu cầu trả lại tiền hoặc viết giấy biên nhận nên H đã đồng ý viết giấy biên nhận tiền dưới hình thức giấy vay tiền. Toàn bộ số tiền trên sau khi nhận được bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết.

- Vụ thứ hai: Khoảng đầu tháng 1/2017 bà Bùi Thị Đ được ông Phạm Văn C1 (là bạn ông Quách Thanh L2) giới thiệu và cho biết Nguyễn Xuân H có nhiều mối quan hệ, có thể xin được việc làm nên bà Đ đã nhờ H xin việc cho con gái là Bùi Thị Lo L1 vừa tốt nghiệp Đại học vào cơ quan Nhà nước (Giáo viên). Nguyễn Xuân H yêu cầu bà Đ đưa cho số tiền 250.000.000 đồng. Bà Đ đồng ý và đã 04 lần đưa tiền cho H cụ thể vào các ngày: Ngày 10/01/2017 bà Đ đưa cho H số tiền 100.000.000 đồng; lần thứ 2 ngày 17/01/2017 số tiền 50.000.000 đồng và vào ngày 17/10/2017 đưa tiếp số tiền 90.000.000 đồng. Các lần giao nhận tiền trên đều tại phòng làm việc của Nguyễn Xuân H tại tầng 10 trụ sở Công an tỉnh Hòa Bình, có viết giấy biên nhận tiền để xin việc. Ngày 20/02/2017 tại huyện Kim Bôi, H đã đến nhà yêu cầu bà Đ cho vay số tiền 10.000.000 đồng nói có việc riêng, số tiền này sau được tính vào tổng số tiền H nhận để xin việc cho con gái bà Đ. Toàn bộ số tiền trên, sau khi nhận được H đã chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận giám định số 229/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 24/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: “Chữ ký, chữ viết họ tên Nguyễn Xuân H trên bốn giấy biên nhận đề ngày 30/12/2016, ngày 10/01/2017; ngày 17/01/2017 và ngày 17/10/2017 do cùng một người ký và viết ra”.

Cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 28/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hoà Bình truy tố: Nguyễn Xuân H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015

* Luận tội của Viện kiểm sát:

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của BLHS 2015 xử phạt Nguyễn Xuân H từ 07 năm 6 tháng đến 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về trách nhiệm dân sự: Yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho gia đình những người bị hại số tiền đã chiếm đoạt.

* Ý kiến của bị cáo và lời bào chữa của luật sư:

1. Theo nhận thức của bị cáo thì trong vụ án này bị cáo không đưa ra thông tin giả tạo, cũng như không có ý thức chiếm đoạt, bởi những thông tin bị cáo đưa ra về việc xin việc cho con của người bị hại là có cơ sở. Tự các gia đình bị hại đã kết nối với bị cáo để nhờ vả và sau khi không xin được việc bị cáo đã viết giấy biên nhận vay tiền, các bị hại cũng cho bị cáo khắc phục dần hậu quả.

Về áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần, bị cáo cho rằng bị cáo chỉ có một hành vi phạm tội và tại khoản 3 Điều 174 BLHS không có quy định về phạm tội 02 lần. Bị cáo cũng đề nghị HĐXX áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, t, x khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự bị cáo đề nghị xem xét việc bị cáo đã trả cho người bị hại bà Bùi Thị Đ thông qua ông Phạm Văn C1 số tiền là 50.000.000 đồng. Việc ông C1 khai là bị cáo nhận xin việc cho con ông C1 là bịa đặt, vu khống.

2. Luật sư bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Khẳng định không có đủ căn cứ kết tội bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bởi lẽ bị cáo không có thủ đoạn gian dối; không có tài liệu chứng minh bị cáo đã đưa ra các thông tin giả tạo về các mối quan hệ, hứa hẹn cho bị hại về xin việc vào các cơ quan cụ thể nào; những việc làm tư vẫn, hướng dẫn, mua hồ sơ, hỗ trợ cho bị hại trong việc xin việc là hoàn toàn hợp pháp và quan hệ đưa tiền của người bị hại cho bị cáo là quan hệ dân sự thuần túy (Vì hai bên có thỏa thuận vay tiền).

* Ý kiến của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng:

1. Người bị hại bà Bùi Thị Đ xác nhận đã nhận số tiền bồi thường từ gia đình bị cáo là 20.000.000 đồng và nay yêu cầu bị cáo tiếp tục phải hoàn trả cho gia đình bà số tiền là 230.000.000 đồng. Ông Bùi Duy H1 cũng xác nhận đã nhận số tiền bồi thường từ gia đình bị cáo là 10.000.000 đồng và yêu cầu bị cáo tiếp tục phải hoàn trả cho gia đình ông số tiền là 125.000.000 đồng. Người bị hại bà Đ, ông H1 đều có đơn xin giảm nhẹ TNHS cho bị cáo.

Đối với số tiền mà bà Đ và ông H1 đã đưa cho bị cáo, các bị hại đều xác nhận đây là tài sản chung của vợ chồng, anh Đ1, chị L1 đều không có đóng góp gì.

2. Chị Nguyễn Thị Y (em gái của bị cáo H) là người đứng ra bồi thường cho 02 gia đình bị hại có ý kiến là không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền này.

3. Tại lời khai người làm chứng ông Phạm Văn C1 thừa nhận có nhận từ bị cáo H số tiền 50.000.000 đồng nhưng đây là tiền mà bị cáo trả nợ cho ông, không liên quan đến tiền xin việc của con bà Đức và hiện ông cũng không đưa số tiền này cho bà Đ.

* Đối đáp của VKS: Trong vụ án này những người bị hại không quen biết bị cáo mà qua người trung gian là ông L2, ông C1 và khi được bị cáo giới thiệu về bản thân cũng như hứa hẹn có thể xin được việc nên các bị hại đã rất tin tưởng giao tiền (trong khi bị cáo không có khả năng xin được việc). Bản thân bị cáo sau khi nhận tiền cũng không có tác động, hành vi gì thể hiện đi xin việc cho người bị hại. Đến nay việc bị cáo không xin được, tiền bị cáo không trả và khai đã chi tiểu vào việc cá nhân, do vậy VKSND TP Hòa Bình truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có cơ sở.

* Lời nói sau cùng: Bị cáo xin lỗi gia đình những người bị hại vì đã chưa trả hết tiền và đề nghị HĐXX đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để có phán quyết một cách khách quan, đồng thời mong tòa xem xét những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng.

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP Hòa Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án và hành vi bị cáo đã thực hiện.

Qúa trình điều tra và kết quả tranh tụng tại phiên tòa,bị cáo Nguyễn Xuân H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bị cáo đã khai nhận trước cơ quan điều tra. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định vào khoảng thời gian cuối năm 2016 và năm 2017 mặc dù bản thân bị cáo không có chức năng, nhiệm vụ tuyển sinh, tuyển dụng lao động, không có khả năng xin việc vào bất cứ cơ quan Nhà nước, nhưng lợi dụng vào cương vị công tác bị cáo đã đưa ra những thông tin về các mối quan hệ và khả năng xin việc làm để tạo lòng tin chiếm đoạt của bà Bùi Thị Đ số tiền là 250.000.000 đồng và của ông Bùi Duy H1 số tiền là 135.000.000 đồng, dưới hình thức nhận tiền để “chạy” việc làm. Sau khi nhận được tiền bị cáo đã sử dụng vào mục đích chi tiêu và trả nợ cá nhân.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và hiểu biết pháp luật, nhưng do ý thức coi thường pháp luật và hám lợi nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi nêu trên của bị cáo là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu của người khác. Đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174của BLHS.

Những lập luận của bị cáo và luật sư bào chữa cho rằng bị cáo không có thủ đoạn gian dối; bị cáo cũng không đưa ra các thông tin giả tạo về các mối quan hệ, hứa hẹn cho bị hại về xin việc vào các cơ quan cụ thể nào; những việc làm tư vấn, hướng dẫn, mua hồ sơ, hỗ trợ cho bị hại trong việc xin việc là hoàn toàn hợp pháp và quan hệ đưa tiền của người bị hại cho bị cáo là quan hệ dân sự thuần túy, HĐXX xét thấy lập luận trên là không có cơ sở.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà Đ và ông H1. Các lần phạm tội này đều chưa bị truy cứu TNHS và chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS, đây là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và Luật sư bào chữa của bị cáo đề nghị HĐXX:

- Áp dụng tình tiết bị cáo và gia đình đã bồi thường, khắc phục một phần thiệt hại cho bị hại. HĐXX xét thấy: Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã gây thiệt hại cho bà Đ và ông H1 với tổng số tiền là 385.000.000đ. Bị cáo mới chỉ bồi thường cho các bị hại số tiền 30.000.000d. Việc bồi thường này là nghĩa vụ của bị cáo, song số tiền bồi thường trên chưa tương xứng với tính chất, hậu quả mà hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Do đó, đề nghị này không được HĐXX chấp nhận và chỉ coi đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 BLHS.

- Áp dụng tình tiết bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm cung cấp các tình tiết rõ ràng, cụ thể trong quá trình giải quyết vụ án theo điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. HĐXX xét thấy: đây chỉ là những hành vi, lời khai thể hiện sự thành khẩn khai báo của bị cáo. Bản thân bị cáo chưa chủ động cung cấp thông tin, tài liệu, manh mối trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Bị cáo cũng chưa bồi thường đầy đủ cho bị hại, không giúp cho vụ án được giải quyết nhanh chóng. Bị cáo cũng không có lời khai nào giúp đỡ cho cơ quan có thẩm quyền phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận đề nghị này của bị cáo và Luật sư bào chữa mà chỉ coi đây là việc bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

- Áp dụng tình tiết bị cáo và gia đình là người có công với cách mạng quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS. HĐXX xét thấy, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh người có công với cách mạng năm 2012 thì bị cáo và gia đình không phải là người có công với cách mạng nên đề nghị này không được chấp nhận. Tuy nhiên, bị cáo được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huy chương nên được coi là có thành tích xuất sắc trong công tác nên được HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS.

Ngoài ra, bố đẻ bị cáo Nguyễn Xuân H được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương trong quá trình chiến đấu, công tác; người bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS được xem xét cho bị cáo khi lượng hình.

Từ những nhận định trên, HĐXX áp dụng cho bị cáo Hải các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm (s,v) khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương, do vậy cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

- Theo lời khai của bị cáo là đã trả cho người bị hại bà Bùi Thị Đ số tiền là 50.000.000 đồng, thông qua việc gửi cho ông Phạm Văn C1. Ông C1 cũng xác nhận là đã nhận khoản tiền này, tuy nhiên đây là khoản mà bị cáo trả nợ ông nên ông đã không trả cho bà Đ. Tại phiên tòa bà Đ khẳng định chưa nhận được khoản tiền 50.000.000 đồng bồi thường từ bị cáo, do vậy việc giao nhận tiền giữa bị cáo H và ông C1 sẽ được giải quyết bằng vụ kiện dân sự độc lập.

- Số tiền mà bà Đ, ông H1 đã đưa cho bị cáo được xác định là tài sản chung của vợ chồng bà Đ với ông Bùi Văn M và ông Hiển với bà Quách Thị H2. Xác nhận gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình ông Bùi Duy H1 số tiền là 10.000.000 đồng và gia đình bà Bùi Thị Đ số tiền là 20.000.000 đồng. Nay cần buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho gia đình bà Đ số tiền là 230.000.000 đồng và gia đình ông H1 số tiền là 125.000.000 đồng.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Xuân H 07 (Bảy) năm 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 15/3/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 586 và Điều 589 của Bộ luật dân sự.

- Buộc bị cáo Nguyễn Xuân H phải trả cho ông Bùi Duy H1 và bà Quách Thị H2 số tiền là 125.000.000 đồng (Một trăm hai mươi lăm triệu đồng).

- Buộc bị cáo Nguyễn Xuân H phải trả cho bà Bùi Thị Đ và ông Bùi Văn M số tiền là 230.000.000 đồng (Hai trăm ba mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của gia đình bà Đ, ông H đối với khoản tiền trên, cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Xuân H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 17.750.000 đồng (Mười bảy triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2020/HS-ST ngày 13/10/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:112/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về