Bản án 112/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 112/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 110/2020/TLST-HS, ngày 19 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2020/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Hoàng T, tên gọi khác: B, sinh năm 1990; tại tỉnh Vĩnh Long:

nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số nhà 121 đường T, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: Lớp 07/12; nghề nghiệp: Không; con ông Phạm Văn T, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1966, cùng trú tại: phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; vợ: Nguyễn Thị Hồng P, sinh năm 1989; con: Có 01 con, sinh năm 2016, cùng cư trú tại: Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Tiền sự: Ngày 22/4/2019, Phạm Hoàng T bị Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 69/QĐ-XPHC, đã nộp phạt ngày 17/6/2019.

- Tiền án: Ngày 18/9/2019, Phạm Hoàng T bị Tòa án nhân dân Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 105/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 13/8/2020 đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

Bà Đào Thị Ngọc M, sinh năm 1973; địa chỉ: Số nhà 84B đường L, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 13/8/2020, Phạm Hoàng T đi bộ đến địa chỉ số nhà 84B đường L, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng của bà Đào Thị Ngọc M, sinh năm 1973, thì phát hiện thấy trong sân nhà có 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đen, biển số 49K1-133.69, trên xe có cắm sẵn chìa khóa, không có người trông coi. T đi vào trong sân lấy trộm xe mô tô của bà M rồi điều khiển xe đi lòng vòng trong các tuyến đường tại Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, T chạy đến khu vực đường N, phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng để trú mưa, T mở cốp xe lấy các giấy tờ gồm: 01 Chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe hàng A1 mang tên Đào Thị Ngọc M; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 49K1-133.69 mang tên Hoàng Thị P; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô biển số 49K1-133.69; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm xe mô tô biển số 49N1-068.85; 01 Giấy đăng ký xe mô tô biển số 49P1-0765 mang tên Phan Minh T thì bị Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng kiểm tra hành chính, phát hiện, lập biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp và thu giữ được các tài sản nêu trên. Cơ quan Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng đã ra Quyết định xử lý vật chứng và đã trả lại tất cả các tài sản nêu trên cho gia đình bà Đào Thị Ngọc M, bà M không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự.

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 115/2020/KL-HĐĐGTS ngày 14/8/2020 của Hội đồng định giá Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xác định: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu trắng-bạc-đen, biển số 49K1-133.69, số máy 0170464, số khung 0170420 trị giá 10.167.000 đồng (mười triệu, một trăm sáu mươi bảy ngàn đồng).

Bản Cáo trạng số 120/CT-VKSBL, ngày 14 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Phạm Hoàng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Hoàng T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra Cơ quan Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng đã thu giữ và ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bị hại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt nên không xem xét.

Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị hại không có yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp gì với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm: Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo Phạm Hoàng T đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; nội dung Kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại; lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Phạm Hoàng T là người đã có một tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản; đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Vào ngày 13/8/2020, Phạm Hoàng T đã có hành vi trộm cắp được 01 mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đen biển số 49K1-133.69, trị giá 10.167.000đ của bà Đào Thị Ngọc M tại phường Lộc Sơn, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Cáo trạng số 120/CT-VKS, ngày 14 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất và mức độ của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, mục đích chiếm đoạt tài sản nhằm thoả mãn nhu cầu cho bản thân và với thái độ xem thường pháp luật nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Bị cáo thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng, gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã T khẩn khai báo, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 18/9/2019, Phạm Hoàng T bị Tòa án nhân dân Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 105/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2020, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Vì vậy, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[9] Về phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp nên miễn phạt bổ sung.

[10] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau:

Quá trình điều tra Cơ quan Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng đã thu giữ và ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bị hại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt nên không xem xét.

[11] Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, giải quyết như sau:

 Quá trình điều tra, bị hại bà Đào Thị Ngọc M không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét.

[12] Xét đề nghị và luận tội của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa là căn cứ chấp nhận.

[13] Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về ...án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[14] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Hoàng T, tên gọi khác: B 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/8/2020.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Hoàng T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:112/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về