Bản án 112/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X M,TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU 

Bản án 112/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Ngày 18 tháng 9 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 262/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 94/2019/QĐST- HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: BàTrần Thị Ngọc D, sinh năm: 1992 (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

HKTT: 28/9 BTX, phường 3, quận TB, thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên hệ: 82, đường số 9, khu trung tâm hành chính DA, phường DA, thị xã DA, tỉnh Bình Dương.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm: 1990 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố PL, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/5/2019 bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án nguyên đơn – Bà Trần Thị Ngọc D trình bày:

Bà D xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn K vào năm 2012 có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hôn nhân là trên cơ sở tự nguyện. Được sự đồng ý của hai bên gia đình có tổ chức lễ cưới, trước khi cưới có thời gian tìm hiểu nhau. Sau khi cưới thì cuộc sống giữa bà D và ông K thường phát sinh nhiều mâu thuẫn, do tính tình không hợp nhau, luôn bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường phát sinh cãi vã. Bà D và ông K đã cố gắng khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Bà D và ông K ly thân từ năm 2015 đến nay, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà D yêu cầu được ly hôn với ông K.

Về con chung: Bà D và ông K có 02 con chung tên Nguyễn Trần Đăng K, sinh ngày 15/12/2012 và Nguyễn Trần Nhã K, sinh ngày 09/5/2015, hiện cháu Khoa đang sống cùng ông K, cháu Khanh đang sống cùng bà D. Bà D yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khanh, đồng ý để ông K được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khoa. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà D xác nhận bà D và ông K không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/6/2019 ông Nguyễn Văn K trình bày:

Về thời gian, điều kiện hoàn cảnh kết hôn ông K trình bày thống nhất như lời trình bày của bà D. Cuộc sống chung giữa ông K và bà D đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm nên thường phát sinh cãi vã. Từ năm 2015 đến nay ông K và bà D sống ly thân, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế. Nay theo yêu cầu ly hôn của bà D thì ông K đồng ý ly hôn.

Về con chung: Ông K và bà D có 02 con chung tên Nguyễn Trần Đăng K, sinh ngày 15/12/2012 và Nguyễn Trần Nhã K, sinh ngày 09/5/2015, hiện cháu Khoa đang sống cùng ông K, cháu Khanh đang sống cùng bà D. Ông K yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khoa và đồng ý để bà D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khanh, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trần Thị Ngọc D có đơn xin vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử. Sau biên bản lấy lời khai ngày 25/6/2019 thì Tòa án đã triệu tập ông Nguyễn Văn K nhiều lần, nhưng ông K vắng mặt. Do đó Tòa án không thể tiến hành hòa giải được nên lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông K đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Trần Thị Ngọc D yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Nguyễn Văn K, đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Nguyễn Văn K có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a, khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Trong quá trình tham gia tố tụng, bà Trần Thị Ngọc D có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy việc xét xử vắng mặt bà D và ông K là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà D xây dựng gia đình với ông K vào năm 2012 có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 103, quyển số 01/2012 ngày 25/6/2012 của UBND thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bà D và ông K chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bà D và ông K bất đồng quan điểm, vợ chồng không có tiếng nói chung, thường xảy ra tranh cãi. Bà D và ông K đã cố gắng giải quyết những mâu thuẫn giữa vợ chồng nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Từ năm 2015 đến nay bà D và ông K ly thân, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Xét phần trình bày về mâu thuẫn vợ chồng của bà D và ông K là thống nhất. Xét yêu cầu của bà D cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà D và ông K phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái, nhưng từ năm 2015 đến nay bà D và ông K ly thân, mạnh ai nấy sống, không quan tâm gì đến nhau. Sau khi bà D gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, bà D có đơn xin vắng mặt, ông K đồng ý ly hôn, sau đó vắng mặt không có lý do nên thể hiện không có thiện chí hòa giải.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà D và ông K thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D đối với ông K.

[3] Về con chung:

Xét yêu cầu của bà D cho thấy bà D có yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trần Nhã K, sinh ngày 09/5/2015 hiện đang sống cùng bà D và đồng ý để ông K được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trần Đăng K, sinh ngày 15/12/2012 hiện đang sống với ông K. Yêu cầu này của bà D phù hợp với nguyện vọng của ông K. Do đó để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung nên giao cháu Nguyễn Trần Nhã K, sinh ngày 09/5/2015 cho bà D, giao cháu Nguyễn Trần Đăng K, sinh ngày 15/12/2012 cho ông K, được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà D và ông K tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung là sự tự nguyện của bà D và ông K nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà D và ông K đều xác định không có tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 28, điểm a, khoản 1, Điều 35, điểm a, khoản 1, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016. Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Ngọc D đối với ông Nguyễn Văn K.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Ngọc D được ly hôn với ông Nguyễn Văn K.

2. Về con chung: Bà Trần Thị Ngọc D và ông Nguyễn Văn K có 02 con chung tên Nguyễn Trần Đăng K, sinh ngày 15/12/2012 và Nguyễn Trần Nhã K, sinh ngày 09/5/2015. Bà D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trần Nhã K. Ông K được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trần Đăng K. Bà D và ông K không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trần Thị Ngọc D và ông Nguyễn Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Ngọc D và ông Nguyễn Văn K không có tài sản chung và nợ chung.

4. Về án phí: Bà Trần Thị Ngọc D phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà D đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008082 ngày 10/5/2019 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà D đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:112/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về