Bản án 112/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A

BẢN ÁN 112/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 249/2019/TLST-HNGĐ ngày 11/6/2019 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 211/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/8/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 148/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17/9/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Trần Thị L, sinh năm 1986 (có mặt). Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện N, tỉnh Q.

2. Bị đơn: ông Trịnh Quốc P, sinh năm 1979 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp Đ, xã V, huyện T, tỉnh A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 07/8/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị L trình bày: bà L với ông P do quen biết rồi tiến đến hôn nhân vào năm 2007, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh A và được Ủy ban nhân dân xã V cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 27, ngày 13/3/2008. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc và sinh được một con chung tên Trịnh Thị A, sinh ngày 12/02/2012. Sau khi cưới, bà Lvà ông P đi làm thuê ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh P không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, không quan tâm gì đến vợ con nên giữa bà L và ông P thường xuyên cãi vã nhau. Vì thương chồng và muốn duy trì hạnh phúc gia đình nên bà L đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông P không thay đổi. Từ đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên bà L đã dẫn cháu T về Q sinh sống từ cuối năm 2017 đến nay. Thời gian sống ly thân, bà L và ông P không có mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Nay bà Trần Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: bà L yêu cầu được ly hôn với ông Trịnh Quốc P .

- Về con chung: bà L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Trịnh Thị A, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn ông Trịnh Quốc P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Trịnh Quốc P đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Đ, xã V, huyện T, tỉnh A, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Trịnh Quốc P đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, ông P vắng mặt lần thứ nhất và lần thứ hai, không lý do. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông P.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về hôn nhân: bà Trần Thị L với ông Trịnh Quốc P chung sống với nhau từ năm 2007. Tuy nhiên, đến năm 2008 bà L và ông P mới làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh A cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 27, ngày 13/3/2008. Vì vậy, quan hệ hôn nhân của bà Lvà ông P phù hợp với quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng.

[3.2] Xét, yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị L thấy rằng, bà Lvới ông P chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, bà Lcho rằng ông P không lo làm ăn nên kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Do mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên bà L và ông P không còn sống chung từ năm 2017 cho đến nay.

[3.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Trịnh Quốc P, tạo điều kiện cho ông P và bà L hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, ông P không đến tham gia các phiên hòa giải và cũng không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xét thấy, bà L và ông P đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay, tình trạng hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị L .

[4] Về quan hệ con chung: bà Lvà ông P có 01 con chung tên Trịnh Thị A, sinh ngày 12/02/2012. Bà Lyêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu T đang sống chung với bà L và được học hành ổn định. Đồng thời, tại biên bản ghi nguyện vọng của cháu T ngày 11/6/2019 thì cháu muốn được sống với mẹ. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của cháu Trân, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của bà L; giao cháu T cho bà L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà L không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: không có.

[6] Về án phí: do bà Trần Thị L yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 9, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L .

1.1. Về quan hệ hôn nhân: bà Trần Thị L được ly hôn với ông Trịnh Quốc P .

Giấy chứng nhận kết hôn số 27, ngày 13/3/2008 của Ủy ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh A không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về quan hệ con chung: bà Trần Thị L với ông Trịnh Quốc P có 01 con chung tên Trịnh Thị A, sinh ngày 12/02/2012.

Giao cháu Trịnh Thị A cho bà Trần Thị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (cháu T đang sống chung với bà L). Ông Trịnh Quốc P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trần Thị L cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Trịnh Quốc P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

1.3. Về quan hệ tài sản: không có.

1.4. Về nợ chung: ghi nhận bà Trần Thị L xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà Trần Thị L và ông Trịnh Quốc P vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: bà Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000246 ngày 11/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh A.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:112/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về