Bản án 112/2018/HS-PT ngày 08/02/2018 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 112/2018/HS-PT NGÀY 08/02/2018 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Trong ngày 08 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 504/2017/TLPT-HS ngày 29 tháng 09 năm 2017 đối với bị cáo Trần Hiếu TrườngY và Mai Thị Q. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 297/2017/HSST ngày 18/8/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Hiếu Trường Y, giới tính: nam; sinh năm: 1985 tại Tiền Giang; trú tại: 11/5 HXH, Phường 14, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông Trần Hiếu L và bà Nguyễn Thị H; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 02 người con (lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2010); tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/10/2015 đến ngày 04/02/2016 Cơ quan Cảnh sát điều tra  - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã raquyết định thay đổi biện pháp tạm giam thành “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

2. Mai Thị Q, giới tính: nữ; sinh năm: 1954 tại Thừa Thiên Huế; trú tại:251/43 LQĐ, Phường 7, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn:4/12; nghề nghiệp: không; con ông Mai Nh (chết) và bà Trần Thị Ch (chết); hoàn cảnh gia đình: bị cáo có chồng và 03 người con (lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm1991); tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 12/8/1998 bị cáo bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” (theo Bản án số 1594/HSST ngày 12/8/1998), ngày 11/10/1999 Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án và tuyênphạt bị cáo 18 tháng tù (theo Bản án số 1418/HSPT ngày 11/10/1999). Bị cáo bịtạm giam từ ngày 30/10/2015 đến ngày 09/11/2015 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định thay đổi biện pháp tạm giam thành “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

- Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư Trần Tấn Trí Nh – Đoàn luật sưThành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

(Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo Trần T, Trương Vĩnh Ph, Trần T1, Trần Hiếu Vĩnh Th, Nguyễn Thái B, Nguyễn Chí H, Châu Ngọc H1, Phan Thị Thu Th, Nguyễn Mai L1, Vũ Minh L2, Trần Thị Như Tr không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ khoảng tháng 4/2015, Trần T tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi số đề, thầu số đề, được thua bằng tiền, sau đó chuyển cho một người tên T2 (không rõ lai lịch) để hưởng huê hồng. Trần T lôi kéo thêm Trần T1, Trần Hiếu Trường Y, Châu Ngọc H1, Phan Thị Thu Th, Nguyễn Mai L1, Vũ Minh L2 và Trần Thị Thư Tr, cùng thực hiện ghi đề rồi chuyển cho T để hưởng lợi trên địa bàn quận BT, Quận 1, quận GV, quận TT, Thành phố Hồ Chí Minh, với hình thức như sau:

Những người đánh bạc với T1, Y, H1, Th1, L1, L1 và Tr bằng cách nhắn tin qua điện thoại di động, máy Fax hoặc trực tiếp đến ghi đề, rồi dựa vào kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền Nam như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Bến Tre, Vũng Tàu, Đồng Nai, Cần Thơ, Tây Ninh, An Giang, Bình Dương, Vĩnh Long, Tiền Giang, Kiên Giang, Long An và các đài miền Bắc do Nhà nước tổ chức để làm căn cứ tính toán tiền ăn thua với nhau bằng tiền Việt Nam Đồng với tỷ lệ thắng thua: nếu ghi số đề 2 con số trúng thì con bạc sẽ ăn theo tỉ lệ 1 ăn 75; nếu ghi số đề 3 con số trúng thì con bạc sẽ ăn theo tỉ lệ 1 ăn 650; nếu ghi số đề 4 con số trúng thì con bạc sẽ ăn theo tỉ lệ 1 ăn 5.500. Theo quy ước, số tiền ghi trên phơi đề chỉ ghi con số ở đơn vị hàng ngàn (bỏ bớt 3 số 0 cuối).

Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 30/10/2015, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang tại các địa điểm do Trần T, Trương Vĩnh Ph, Trần T1, Trần Hiếu Trường Y, Trần Hiếu Vĩnh Th, Nguyễn Thái B,  Nguyễn Chí H, Châu Ngọc H1, Phan Thị Thu Th, Nguyễn Mai L1, Mai Thị Q, Vũ Minh L2 và Trần Thị Thư Tr tổ chức việc ghi đề và kết quả điều tra đã xác định cụ thể như sau:

Đối với Trần T và Trương Vĩnh Ph:

Trần T bắt đầu tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền từ khoảng tháng 4/2015. T thuê Trương Vĩnh Ph tham gia giúp sức cho Trần T trong việc tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền. Hàng ngày Ph ngồi tại nhà số 257/46 LQĐ, Phường 7, quận BT sử dụng 5 số máy Fax 35510236, 15512393, 38418886, 38413402 và 38413408 để nhận phơi đề của các nhà dưới chuyển đến gồm: Trần T1 số Fax 37296433, Trần Hiếu Trường Y số Fax 35163961, Châu Ngọc H1 số Fax 39202771, Phan Thị Thu Th số Fax 35123258, Nguyễn Mai L1 số Fax 3834582, Vũ Minh L2 số Fax35160433 và Trần Thị Thư Tr số Fax 39168966.

Sau khi nhận phơi đề xong, T và Ph tổng hợp rồi cộng tiền trên các phơi đề, sau đó, T giao lại toàn bộ phơi đề cho một đối tượng tên Tấn (không rõ lai lịch) để hưởng huê hồng 0,2% trên tổng số tiền ghi trên phơi đề. Đến chiều, sau khi có kết quả xổ số đài miền Nam và miền Bắc thì T và Ph sẽ tính toán tiền thắng thua để sáng ngày hôm sau T trực tiếp hẹn T1, Y, H1, Th1, L1 và L1 ra ngoài đường để chung chi tiền thắng thua với nhau. Trong quá trình ghi thầu đề Trần T thu lợi bất chính thông qua việc ghi thầu đề là 90.000.000 đồng.

Trương Vĩnh Ph khai nhận: Vào khoảng tháng 4/2015, được Trần T thuê Ph tham gia giúp sức cho T tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền. Nhiệm vụ của Ph hàng ngày là cùng T nhận phơi đề từ nhiều nơi chuyển về qua 5 máy Fax số 35510236,15512393, 38418886, 38413402 và 38413408, sau đó tổng hợp cộng lại xem bao nhiêu tiền trên phơi rồi giao lại cho T để T chuyển phơi sang cho người khác và đến khi có kết quả xổ số đài miền Nam và miền Bắc thì T tính toán tiền thắng thua. Mỗi tháng, T trả công cho Phát 2.000.000 đồng tiền phụ cộng phơi đề và6.000.000 đồng tiền đi giao nhận vé số với các đại lý vé số. Trong quá trình giúpTrần T thì Phát được hưởng lợi 12.000.000 đồng.

- Đối với Trần T1:

T1 bắt đầu tổ chức ghi số đề ăn tiền từ tháng 07/2015 tại số 6/4J hẻm số 6, đường Ụ Ghe, khu phố 2, phường TP, quận TĐ. Hàng ngày vào khoảng 15 giờ 30 phút, T1 sử dụng số Fax 37296433 và số điện thoại di động 0914.961.313;0914.300.351 và 0998.505.086 để nhận phơi đề của phụ nữ tên H2 (không rõ lai lịch có số điện thoại 0937.801.239), phụ nữ tên H3 (không rõ lai lịch có số điện thoại  0996.599.815),  phụ  nữ  tên  B3  (không  rõ  lai  lịch  có  số  điện  thoại0168.318.954) và phụ nữ tên Ng (không rõ lai lịch có số điện thoại 0949.773.236)để nhận phơi đề của một số người ghi đề qua tin nhắn hoặc qua máy Fax. Sau đó T1 tổng hợp lại thành phơi đề tổng rồi chuyển phơi đề này sang cho anh ruột của T1 tên Trần T, thông qua hai số Fax là 3551293 và 35510236 để hưởng hưởng huê hồng 01% trên tổng số tiền ghi trên phơi đề và đến chiều cùng ngày, sau khi có kết quả xổ số T1 sẽ tính toán tiền thắng thua rồi sáng hôm sau đi chung tiền thắng thua cho các người đánh bạc. Từ khi tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền cho đến khi bị bắt thu lợi bất chính là 31.500.000 đồng.

- Đối với Trần Hiếu Trường Y, Trần Hiếu Vĩnh Th, Nguyễn Thái B và Nguyễn Chí H:

Y bắt đầu tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền từ tháng 4/2015 tại nhà số 65PVT, Phường 14, quận BT. Hằng ngày vào khoảng 11 giờ, Y, Bình và Th (anh ruột của Y) tổ chức ghi số đề trực tiếp tại nhà cho các con bạc vãng lai (không rõ lai lịch), còn Nguyễn Chí H làm nhiệm vụ giữ xe cho các con bạc đến ghi số đề. Đến khoảng 16 giờ thì Y, Th, B tổng hợp các phơi đề lại rồi sử dụng máy Fax35163961 để chuyển phơi đề qua số 35512393 (của Trần T) để hưởng huê hồng01% trên tổng số tiền ghi trên phơi đề. Sau khi có kết quả xổ số thì Y, Th, B tính toán tiền thắng thua để sáng ngày hôm sau Y giao tiền thắng thua trực tiếp cho các con bạc và cho T. Từ khi tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền cho đến khi bị bắt đã thu lợi được 99.000.000 đồng.

Trần Hiếu Vĩnh Th khai nhận: Tháng 7/2015, Y (Y em ruột của Th) thuê Th tham gia giúp sức cho Y tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền. Mỗi tháng Y trả tiền công cho Th 4.000.000 đồng/tháng. Nhiệm vụ của Thái hàng ngày ngồi tại nhà số65 PVT, Phường 14, quận BT để ghi số đề cho các con bạc vãng lai đến ghi, đến khoảng 16h, thì Th, B cùng Y tổng hợp các phơi đề lại rồi sử dụng máy Fax35163961 để chuyển phơi đề qua máy Fax số 35512393 (của Trần T). Sau đó khi có kết quả xổ số thì Y, B, Th tổng hợp lại tiền thắng thua để sáng hôm sau Y đi giao tiền thắng thua trực tiếp cho các con bạc và cho T. Tổng số tiền Th hưởng lợi trong 3 tháng phụ giúp Y thầu ghi số đề là 12.000.000 đồng.

Nguyễn Thái B khai nhận: Tháng 6/2015, Y thuê B (B là em vợ của Y) tham gia giúp sức cho Y tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền. Mỗi tháng Y trả tiền công cho B 4.000.000 đồng/tháng. Nhiệm vụ của B hàng ngày là cùng Y, Th ngồi tại nhà số 65 PVT, Phường 14, quận BT để ghi số đề cho các con bạc vãng lai đến ghi, đến khoảng 16h, thì B, Th cùng Y tổng hợp các phơi đề lại rồi sử dụng máy Fax 35163961 để chuyển phơi đề qua máy Fax số 35512393 (của Trần T). Sau đó khi có kết quả xổ số thì B, Y, Th tổng hợp lại tiền thắng thua để sáng hôm sau Y đi giao tiền thắng thua trực tiếp cho các con bạc và cho T. Tổng số tiền B hưởng lợi là 12.000.000 đồng.

Nguyễn Chí H khai nhận: Tháng 4/2015, Y thuê H tham gia giúp sức cho Y tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền. Mỗi tháng Y trả tiền công cho H 3.000.000 đồng. Hàng ngày H làm nhiệm vụ trông coi xe cho các con bạc vãng lai đến nhà số 65 PVT, Phường 14, quận BT để ghi số đề. Do Y lo cho H ăn ở nên hai tháng Y mới trả cho H 3.000.000 đồng. Tổng số tiền H hưởng lợi là 9.000.000 đồng.

- Đối với Châu Ngọc H1:

H1 bắt đầu tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền tại nhà số 322/2D THĐ, phường NCT, Quận 1 từ tháng 7/2015. Hàng ngày từ 07 giờ đến 10 giờ, Hà đến khu vực chợ BC để bán vé số và vừa ghi số đề, đồng thời nhận tin nhắn ghi số đề của mộtngười tên T3 lai lịch, sử dụng số điện thoại 0903157158) và đến khoảng 13 giờ hàng ngày, H1 tổng hợp các phơi đề rồi sử dụng máy Fax 39202771 chuyển các phơi đề qua máy Fax 35510236 của Trần T (chồng cũ của H1) để hưởng huê hồng 01% trên tổng số tiền ghi trên phơi đề. Từ khi tổ chức thầu ghi số đề ăn tiềncho đến khi bị bắt thu lợi bất chính là 31.500.000 đồng.

- Đối với Phan Thị Thu Th:

Th bắt đầu tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền từ tháng 4/2015 tại địa chỉ 140/23ĐBP, Phường 17, quận BT. Mỗi ngày vào khoảng 15 giờ 30 phút, Th sử dụng các số điện thoại: 0901488292; 0912360944; 0934455751 để nhận ghi số đề cho các con bạc tên O (không rõ lai lịch sử dụng số điện thoại 01213623777), Tài (không rõ lai lịch, sử dụng số điện thoại 0909759312), Vân (không rõ lai lịch, sử dụng sốđiện thoại 01267523132, 0966119372), Út Hiền (không rõ lai lịch, sử dụng sốđiện thoại 0907271078). Đến khoảng 16 giờ thì Th tổng hợp lại thành phơi đề tổng, rồi sử dụng máy Fax 3512358, chuyển qua số Fax 38418886 (của Trần T) để hưởng huê hồng 01% trên tổng số tiền ghi trên phơi đề. Từ khi tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền cho đến khi bị bắt thu lợi bất chính là 18.000.000 đồng.

- Đối với Nguyễn Mai L1 và Mai Thị Q:

L1 bắt đầu tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền từ tháng 8/2015. Hàng ngày từkhoảng 15 giờ 30 phút, L1 ở nhà và nhận phơi đề qua máy fax 38434582,62899178 từ một người tên Mai (không rõ lai lịch) và thông qua Mai Thị Q (mẹ ruột của L1) nhận trực tiếp phơi đề từ ông Xiềm (không rõ lai lịch). Sau đó, L1 tổng hợp lại thành các tờ phơi do L1 tự ghi ra và chuyển bằng máy fax cho người có số fax 35510236, 15512393, 38418886,38413402 và 38413408 (số của Trần T) để hưởng huê hồng 01% trên tổng số tiền ghi trên phơi đề và đến chiều cùng ngày, sau khi có kết quả xổ số thì L1 tính tiền thắng thua để sáng ngày hôm sau L1 đưa cho Q đi giao tiền thắng thua trực tiếp cho các người đánh bạc và cho T. Từ khi tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền cho đến khi bị bắt thu lợi bất chính được9.000.000 đồng.

Mai Thị Q khai nhận: Bắt đầu cùng với con gái là Nguyễn Mai L1 tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền từ tháng 8/2015 với hai người là ông Xiềm và bà Mai (không rõ lai lịch). Vào khoảng 15 giờ 30 phút đến 16 giờ hàng ngày, Q trực tiếp nhận phơi đề của ông Xiềm và bà Mai, sau đó Q chuyển lại số phơi này cho L1 để L1 chuyển số phơi này cho các số fax 35510236, 15512393, 38418886,38413402 và 38413408 (số của Trần T) và đến chiều thì L1 tính tiền thắng thua rồi đưa lại cho Q để sáng ngày hôm sau Q tự đi ra chợ Bà Chiểu gặp một người tên Hương (chưa rõ lai lịch) để giao lại cho Châu Ngọc H1 và H1 đem giao lại cho cho T. Từ khi tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền cho đến khi bị bắt thì L1 thu lợi bất chính được9.000.000 đồng.

- Đối với Vũ Minh L2:

L1 bắt đầu tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền từ tháng 9/2015. Hàng ngày vào khoảng 14 giờ, L1 tổ chức ghi số đề trực tiếp tại nhà cho các người đánh bạc tên Chính, Hạnh, Úc, Tư, Hưng (không rõ lai lịch) và đến khoảng 15 giờ 40 phút, Lễ tổng hợp lại thành phơi tổng rồi sử dụng máy Fax 351 60433 chuyển cho Trần T theo số Fax 35512393 ) để hưởng huê hồng 01% trên tổng số tiền ghi trên phơi đề. Sau khi có kết quả xổ số thì L1 tính toán tiền thắng thua sang hôm sau, L1 đi chung chi tiền thắng thua trực tiếp cho T và những người đánh bạc. Từ khi tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền cho đến khi bị bắt thu lợi bất chính là 9.000.000 đồng.

- Đối với Trần Thị Thư Tr:

Tr bắt đầu tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền tại nhà số 1144/37 LĐT, phường13, quận GV từ tháng 10/2015. Hàng ngày Tr sử dụng điện thoại di động gắn sim số 0913923270 để nhận tin nhắn ghi số đề từ một người phụ nữ tên Mai (không rõlai lịch, có số điện thoại 0937114156), từ anh Tân (không rõ lai lịch, có số điện thoại 01692318581), anh Qúy (không rõ lai lịch, có số điện thoại 01676832355) và các anh Hùng, Tý, Bắc, Tùng (không biết lai lịch và nhớ số điện thoại). Sau đó, Trang tổng hợp toàn bộ các số đề khách mua trên thành phơi tổng rồi sử dụngsố Fax 39168966 chuyển Fax qua số Fax 38418886 (của Trần T - chồng của Tr) và cũng có lúc sử dụng số điện thoại 0913923270 để gửi tin nhắn ghi số đề trực tiếp vào số 0913805888 của T. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Túc về nhà ngủ thì Tr và T sẽ kiểm tra lại phơi đề tổng và tính toán tiền thắng thua đối với các số đề mà Tr chuyển qua cho T. Từ khi tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền cho đến khi bị bắt thu lợi bất chính là 3.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 2972017/HSST ngày 18/8/2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Trần T, Trương Vĩnh Ph, Trần T1, Trần Hiếu Trường Y, Châu Ngọc H1, Phan Thị Thu Th, Trần Hiếu Vĩnh Th, Nguyễn Thái B, Nguyễn Chí H, Nguyễn Mai L1, Mai Thị Q, Vũ Minh L2, Trần Thị Thư Tr phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46;điểm a khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm2009;

Xử phạt: Trần Hiếu Trường Y 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ đi thời hạn tạm giam trước từ ngày30/10/2015 đến ngày 04/02/2016.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Mai Thị Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ đi thời hạn tạm giam trước từ ngày30/10/2015 đến ngày 09/11/2015.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo Trần T, Trương Vĩnh Ph, Trần T1, Trần Hiếu Vĩnh Th, Nguyễn Thái B, Nguyễn Chí H, Châu Ngọc H1, Phan Thị Thu Th, Nguyễn Mai L1, Vũ Minh L2, Trần Thị Thư Tr; quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm; ngày 22/8/2017, bị cáo Trần Hiếu Trường Ykháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 19/8/2017, bị cáo Mai Thị Q xin có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Trần Hiếu Trường Y xin hưởng án treo vì hoàn cảnh gia đình bịcáo khó khăn, cha bị cáo bị ung thư giai đoạn cuối, em trai bị bệnh tâm thần nặng, bị cáo là lao động chính trong gia đình.

- Bị cáo Mai Thị Q xin giảm nhẹ hình phạt hoặc xử phạt bằng hình phạt khác để bị cáo có điều kiện chữa bệnh vì bị cáo phạm tội với vai trò giúp sức, số tiền thu lợi bất chính không lớn, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo lớn tuổi đang bị bệnh tim.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Luật sư bào chữa cho các bị cáo trình bày: Bị cáo Y chỉ thu lợi bất chính33.000.000 đồng, không phải 99.000.000 đồng như Tòa sơ thẩm đã quy kết; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính, bị cáo đang nuôi con nhỏ, cha mẹ bị bệnh nặng, em trai bị bệnh tâm thần. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ mớiquy định tại khoản 2 Điều 46; đề nghị Hội đồng xét xữ áp dụng Điều 47 giảm thêm hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo Q phạm tôi với vai trò giúp sức, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo lớn tuổi, bị bệnh tim, bị cáo không được chia tiền từ số tiền thu lợi bất chính. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt khác là hình phạt tiền đối với bị cáo để bị cáo có điều kiện chữa bệnh.

Căn cứ vào các tài liệu,chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, Luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Hiếu Trường Y và bị cáo Mai Thị Q nộp trong thời hạn quy định của pháp luật nên hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Qua xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, thấy rằng khoảng 16 giờ 30 phút ngày 30/10/2015, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang tại các địa điểm do Trần Hiếu Trường Y, Mai Thị Q và các bị cáo khác đang tổ chức việc ghi đề và kết quả điều tra đã xác định cụ thể như sau:

Bị cáo Trần Hiếu Trường Y đã bắt đầu tổ chức thầu ghi số đề ăn tiền từ tháng 4/2015 tại nhà số 65 PVT, phường 14, quận BT. Hàng ngày, vào khoảng 11 giờ Y tổ chức ghi số đề tại nhà các con bạc vãn lai; đến khoảng 16 giờ thì Y các phơi đề rồi dùng máy Fax chuyển phơi đề qua máy Fax của Trần T để hưởng hoa hồng 01% trên tổng số tiền ghi trên phơi đề. Từ khi tổ chức ghi thầu số đề cho đến khi bị bắt bị cáo thu lợi 99.000.000 đồng.

Bị cáo Mai Thị Q tổ chức thầu ghi số đề từ tháng 8/2015. Hàng ngày vào khoảng 15 giờ 30 Q trực tiếp nhận phơi đề của ông Xiềm, bà Mai (không rõ lai lịch) sau đó chuyển lại số phơi này cho L1, nếu đến chiều L1 tính tiền thắng thua rồi đưa lại cho Q để Q giao lại cho người khác.

Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo Trần Hiếu Trường Y và Mai Thị Q về tội“Tổ chức đánh bạc” theo Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến an toàn xã hội mà còn gây ảnh hưởng xấu đến nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội nên cần phải xử phạt nghiêm để giáo dục cải tạo các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

[4.1] Đối với bị cáo Trần Hiếu Trường Y: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi, mức độ phạm tội, vai trò là người đứng đầu, rủ rê các bị cáo khác trong vụ án, thực hiện tội phạm trong thời gian dài, thu lợi bất chính số tiền rất lớn. Mức hình phạt 03 năm tù Tòa án đã tuyên đối với bị cáo là mức án nhẹ nhất của khung hình phạt. Các lý do để xin hưởng án treo bị cáo nêu ra tại phiên tòa phúc thẩm không phải là tình tiết mới đặc biệt. Do đó,không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơthẩm như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo.

[4.2] Đối với bị cáo Mai Thị Q: Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, mức án 01 năm 06 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội với vai trò giúp sức, thu lợi bất chính không lớn đồng thời phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại phiên tòa bị cáo xin được thay đổi hình phạt tù bằng hình phạt tiền. Thấy rằng, hình thức phạt tiền cũng đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo; đồng thời trường hợp của bị cáo không cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt tiền với mức cao là phù hợp đối với bị cáo.

[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Y phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định, bị cáo Q được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí.

[6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Không  chấp nhận kháng cáo của bị cáo  Trần  Hiếu  Trường Y; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Yên.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Thị Q; sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Q.

Tuyên bố các bị cáo Trần T, Mai Thị Q phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46;điểm a khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Trần Hiếu Trường Y 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ đi thời hạn tạm giam trước từ ngày 30/10/2015 đến ngày 04/02/2016.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 249; Điều 30; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46;điểm a khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt tiền đối với bị cáo Mai Thị Q; buộc bị cáo phải nộp phạt số tiền100.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước; nộp một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Án phí hình sự phúc thẩm:

- Bị cáo Trần Hiếu Trường Y phải chịu 200.000 đồng.

- Bị cáo Mai Thị Q không phải chịu.

4. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

468
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2018/HS-PT ngày 08/02/2018 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:112/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về