TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ , TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 06/2021/TLST-HS ngày 13/01/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HS ngày 15/01/2021 đối với bị cáo:
Lâm Hoài N, sinh năm 1986 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ M, phường Q, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Văn B và bà Đinh Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 12/04/2017 Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/05/2018 nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự; tiền sự: Không; nhân thân: Các ngày 13/05/2005, 07/7/2005, 05/8/2005 và 29/8/2005 đều bị Công an phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 100.000 đồng về hành vi: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 25/10/2005 Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, thời hạn 24 tháng. Ngày 28/01/2008 Công an phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 200.000 đồng về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 21/05/2011 Công an phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 150.000 đồng về hành vi: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 13/10/2011 Công an phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 150.000 đồng về hành vi: “Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác”. Ngày 02/01/2012 Công an phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 10/05/2014 Công an phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 05/11/2020; tạm giam từ ngày 14/11/2020 đến nay; có mặt.
- Bị hại: Anh Vũ Văn H, sinh năm 1980; trú tại: Tổ K, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Ngô Quang H, sinh năm 1979;
2. Chị Ngô Thị X, sinh năm 1985.
Đều trú tại: Tổ 2, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lâm Hoài N là người đã bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Với ý định đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân nên khoảng 02 giờ ngày 02/11/2020 N đi bộ lang thang trong khu vực tổ K, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý xem có ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến trước nhà anh Vũ Văn H, Ninh nảy sinh ý định đột nhập vào nhà anh H để trộm cắp tài sản. Do cổng nhà anh H khóa nên N đã trèo qua tường rào vào bên trong thì nhìn thấy trên sân có 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu ANBICO màu xanh, BKS: 90MĐ1-250.50 dựng giữa 02 chiếc xe môtô, chìa khóa xe máy điện vẫn cắm ở ổ khóa. Quan sát thấy cửa phòng khách nhà anh H chỉ khép hờ, N liền mở cửa đi vào trong phòng khách tìm thấy 01 chìa khóa để trên bàn uống nước nên mang ra mở được cổng. N dắt chiếc xe máy điện ra bên ngoài đường rồi điều khiển xe đi đến thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm. Trên đường đi, N tháo biển kiểm soát của chiếc xe máy điện đem vứt đi. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, N gọi điện hẹn gặp Nguyễn Văn Đ ở tiểu khu C, thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm để vay Đ số tiền 2.000.000 đồng và giao chiếc xe máy điện cho Đ mang đi cầm cố rồi đón xe khách đi Nam Định. Dọc đường đi, N nhận được điện thoại của Đ bảo N quay lại trả số tiền đã vay, Đ còn nhắn tin cho N gửi số điện thoại của anh Ngô Quang H ở tổ 2, phường T, thành phố Phủ Lý là người đang muốn mua chiếc xe máy điện. N liền đi xe ôm của một người phụ nữ tên Phạm Thị Lan quay lại gặp Đ và gọi điện hẹn anh H đến khu vực cầu Kiện Khê để bán xe máy điện cho anh H. Tại đây, N gặp Đ, anh H cùng với vợ anh H là chị Ngô Thị X, N thỏa thuận và bán chiếc xe máy điện cho vợ chồng anh H với giá 3.200.000 đồng, viết giấy mua bán xe và để lại giấy CMND của N cho vợ chồng anh H. Số tiền bán chiếc xe máy điện N trả cho Đ 2.000.000 đồng, trả tiền xe ôm 100.000 đồng, còn lại N sử dụng tiêu xài cá nhân hết.
Sau khi phát hiện bị kẻ gian đột nhập vào nhà lấy trộm chiếc xe máy điện, ngày 03/11/2020 anh Vũ Văn H làm đơn trình báo Công an phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý đề nghị giải quyết. Ngày 05/11/2020 Lâm Hoài N đến Công an phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp chiếc xe máy điện của gia đình anh Vũ Văn H ngày 02/11/2020.
Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm:
- 01 xe máy điện nhãn hiệu ANBICO, sơn màu xanh, không đeo biển kiểm soát; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lâm Hoài N và 01 giấy mua bán xe viết tay đề ngày 02/11/2020.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm tiến hành truy tìm biển kiểm soát: 90MĐ1-250.50 của chiếc xe máy điện nhưng không tìm thấy.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 100/2020 ngày 10/11/2020, Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam kết luận:“01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu ANBICO, màu sơn xanh, không đeo biển kiểm soát, xe đã qua sử dụng giá còn 6.000.000 đồng”.
Ngày 12/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe máy điện (không đeo biển kiểm soát) cho anh Vũ Văn H.
Bản cáo trạng số 14/CT-VKS-PL ngày 12/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Lâm Hoài N về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Lâm Hoài N, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt Lâm Hoài N từ 18 tháng đến 24 tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Lâm Hoài N đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lâm Hoài N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa như biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, giao nhận vật chứng; sơ đồ xác định hiện trường vụ việc; kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu khác trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Lâm Hoài N là người đã bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Khoảng 02 giờ ngày 02/11/2020, lợi dụng đêm tối và sự sơ hở mất cảnh giác của người khác, N đã lén lút đột nhập vào nhà anh Vũ Văn H ở tổ K, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam lấy trộm chiếc xe máy điện nhãn hiệu ANBICO, màu sơn xanh, biển kiểm soát: 90MĐ1-250.50 trị giá 6.000.000 đồng mang bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Hành vi nêu trên của bị cáo Lâm Hoài N đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự;
có nhân thân xấu do đã bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích; bản thân đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi: “Trộm cắp tài sản”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Sử dụng trái phép chất ma túy” và “Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác” (đều đã hết thời hạn coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã tự nguyện ra đầu thú nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt:
Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo mặc dù đã bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” nhưng đã không chịu lấy đó làm bài học, tu dưỡng bản thân thành người có ích mà vẫn tiếp tục thực hiện tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu, do đó đã thể hiện bản chất coi thường pháp luật của bị cáo. Hành vi của bị cáo không những gây hậu quả làm thiệt hại về tài sản cho người khác mà còn gây mất trật tự, trị an, tạo tâm lý lo ngại, bức xúc trong nhân dân. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp và thu nhập nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Đối với anh Ngô Quang H và chị Ngô Thị X là những người đã mua lại chiếc xe máy điện của Lâm Hoài N, do anh H, chị X đều không biết nguồn gốc của chiếc xe là tài sản do trộm cắp mà có nên hành vi nêu trên của họ không cấu thành tội:“Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, Cơ quan điều tra đã không xử lý về mặt hình sự đối với anh H và chị X là có căn cứ.
Đối với Nguyễn Văn Đ và Phạm Thị Lan là người theo bị cáo khai đã tham gia chứng kiến việc mua, bán xe máy điện và sử dụng số tiền có được từ việc mua bán chiếc xe, do quá trình điều tra Nguyễn Văn Đ vắng mặt tại nơi cư trú, không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ của Phạm Thị Lan nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để xem xét, xử lý những người này là có căn cứ.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Đối với tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là chiếc xe máy điện nhãn hiệu ANBICO, Cơ quan điều tra đã thu hồi lại được trả cho bị hại. Anh Vũ Văn H đã nhận lại tài sản của mình và không yêu cầu, đề nghị gì về việc bồi thường thiệt hại nên trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với bị hại không đặt ra xem xét, giải quyết.
Đối với số tiền 3.200.000 đồng vợ chồng anh Ngô Quang H, chị Ngô Thị X đã bỏ ra mua chiếc xe máy điện, do quá trình điều tra anh H, chị X đều không yêu cầu giải quyết và có ý kiến cho (tặng) lại bị cáo số tiền này nên trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án cũng không đặt ra xem xét, giải quyết.
[8] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:
+ Đối với chiếc xe máy điện nhãn hiệu HABICO, sơn màu xanh không đeo biển kiểm soát, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại tài sản này cho bị hại nên không xem xét, giải quyết.
+ Đối với 01 giấy CMND mang tên Lâm Hoài N, quá trình điều tra đã xác định là giấy tờ hợp pháp của bị cáo nên sẽ trả lại cho bị cáo.
+ Đối với 01 giấy mua bán xe viết tay đề ngày 02/11/2020 là tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm sẽ lưu trong hồ sơ vụ án.
[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lâm Hoài N phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/11/2020.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Lâm Hoài N 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Lâm Hoài N. Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 14/01/2021.
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Lâm Hoài N nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 11/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 11/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về