Bản án 11/2021/HSST ngày 25/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN 

BẢN ÁN 11/2021/HSST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B - tỉnh Bắc Kạn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2021/HSST ngày 27 tháng 04 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Nông Đức Th. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 20/08/1991 tại huyện B - Bắc Kạn. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 1, xã S, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nông Đức D và bà Đinh Thị V. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 25/01/2021, tổ công tác Công an huyện B đang làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực đường liên xã N - C, thuộc thôn N, xã Ng, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, phát hiện một đối tượng nam giới mặc áo khoác màu nâu, quần ngố màu xanh có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra hành chính đối với đối tượng trên. Quá trình kiểm tra đối tượng không xuất trình được giấy tờ tùy thân và trình bày họ tên Nông Đức Th, sinh năm 1991, trú tại thôn 1, xã S, huyện B, tỉnh Bắc Kạn và lấy trong túi áo phía trước bên phải đang mặc ra 01 bao thuốc lá màu vàng, bên trong có 01 gói nhỏ được gói bằng giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác. Tiến hành thử phản ứng phát hiện nhanh chất ma túy Heroine, sau khi thử phán ứng gói nhỏ trên được gói lại như lúc phát hiện và niêm phong trong phong bì ký hiệu “T”, 01 (một) bao thuốc lá màu vàng đã qua sử dụng niêm phong trong phong bì ký hiệu “T1”. Ngoài những đồ vật, tài liệu nêu trên không thu giữ đồ vật, tài liệu nào khác.

Biên bản cân xác định khối lượng chất bột nghi là ma túy ngày 25/01/2021 xác định: Số chất bột màu trắng trong 01 gói nhỏ được niêm phong trong phong bì ký hiệu “T” có tổng khối lượng là 0,132g (không phẩy một ba hai gam), sau khi cân tiến hành cho toàn bộ số chất bột màu trắng niêm phong trong phong bì mới ký hiệu “GĐ” để gửi giám định. Giấy gói và phong bì cũ được niêm phong trong phong bì mới ký hiệu “VC”.

Kết luận giám định số: 48/KTHS-MT ngày 30/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu GĐ gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,132g (không phẩy một ba hai gam). Sau giám định, mẫu chất bột trong phong bì ký hiệu GĐ còn lại 0,090g (không phẩy không chín không gam) cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T48 hoàn trả lại cho cơ quan trưng cầu.

Tại cơ quan điều tra Nông Đức Th khai nhận: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 25/01/2021, Th đón xe ô tô khách đi xuống xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực chợ C thuộc xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, Th gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết họ tên, địa chỉ và hỏi mua ma túy với số tiền 200.000 đồng, người đàn ông đồng ý, hẹn Th đến khu vực nhà hoang thuộc thôn N, xã Ng, huyện B để lấy ma túy. Th đi bộ đến khu vực trên thì thấy người đàn ông đó đang đứng đợi và đưa cho Th 02 (hai) gói nhỏ ma túy. Th cầm lấy và mang đi sử dụng hết 01 (một) gói, còn 01 (một) gói Th để vào bao thuốc lá và cho vào túi áo bên phải, rồi đi bộ ra khu vực ngã ba C thuộc xã C, huyện B để đón xe về. Khi đi được một đoạn thì Công an huyện B, tỉnh Bắc Kạn tiến hành kiểm tra, thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Lời khai của Nông Đức Th phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKSBT ngày 26 tháng 04 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn truy tố đối với Nông Đức Th về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Điều luật có nội dung:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nông Đức Th theo điểm, khoản, điều luật và tội danh như đã viện dẫn ở trên và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/BLHS. Xử phạt bị cáo từ 12 - 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy số vật chứng không có giá trị sử dụng gồm: 01 (một) phong bì ký hiệu T48, bên trong có 0,090g (không phẩy không chín không gam) ma túy, loại heroine hoàn trả sau giám định; 01 (một) phong bì ký hiệu “VC” bên trong có giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu; 01 (một) phong bì ký hiệu “T1” bên trong có 01 bao thuốc lá màu vàng.

Về hình phạt bổ sung: Không có tài sản, không áp dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng truy tố, không có khiếu nại về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung, tại phiên tòa xác định: Ngày 25/01/2021, Nông Đức Th đón xe ô tô khách đi xuống xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, khi đến khu vực chợ C thuộc xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, Th gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi không quen biết và hỏi mua được 02 (hai) gói nhỏ ma túy và mang đi sử dụng hết 01 (một) gói, còn 01 (một) gói có khối lượng 0,132g (không phẩy một ba hai gam), trên đường đi bộ ra khu vực ngã ba C thuộc xã C, huyện B để đón xe về thì Nông Đức Th bị Công an huyện B, tỉnh Bắc Kạn kiểm tra và phát hiện. Mục đích Th mua ma túy là để sử dụng cho bản thân.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, xét thấy lời khai nhận của bị cáo phù hợp với chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Nông Đức Th về tội:

Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ pháp luật.

Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của nhà nước đối với các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an tại địa phương. Cần được xử lý nghiêm bằng hình phạt pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Không có tình tiết tăng nặng; được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

[4]. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nông Đức Th tại thôn N, xã Ng, huyện B, do không biết tên tuổi, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh.

[5]. Vật chứng: - 01 (một) phong bì ký hiệu T48, bên trong có 0,090g (Không phẩy không chín không gam) ma túy, loại heroine hoàn trả sau giám định; 01 (một) phong bì ký hiệu “VC” bên trong có giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu; 01 (một) phong bì ký hiệu “T1” bên trong có một bao thuốc lá màu vàng. Tất cả đều không có giá trị sử dụng - tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định, qua xác minh tại địa phương không có tài sản riêng nên không áp dụng.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nông Đức Th phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạ t: Bị cáo Nông Đức Th 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

* Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

* Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số vật chứng không có giá trị sử dụng gồm: 01 (một) phong bì ký hiệu T48, bên trong có 0,090g (không phẩy không chín không gam) ma túy, loại heroine hoàn trả sau giám định; 01 (một) phong bì ký hiệu “VC” bên trong có giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu; 01 (một) phong bì ký hiệu “T1” bên trong có 01 bao thuốc lá màu vàng.

* Án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nông Đức Th chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HSST ngày 25/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về