Bản án 11/2021/HSST ngày 22/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 11/2021/HSST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 164/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2020/QĐXXST-HS ngày 29/12/2020 đối với:

* Bị cáo: Lê Thị Thủy T - Sinh ngày 21 tháng 7 năm 1994 tại Đà Nẵng; nơi ĐKNKTT và cư trú: Tổ 38, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: không rõ và bà Lê Thị Phương Y; có chồng là Phan Văn L; bị cáo có 03 con, con nhỏ nhất sinh ngày 16/10/2018.

Tiền án: Tại Bản án hình sự số 33/2020/HS-ST ngày 26/5/2020 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xử phạt Lê Thị Thủy T một năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: có 02 tiền sự:

- Ngày 22/8/2019, Lê Thị Thủy T bị Công an phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính số tiền 750.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 290/QĐ-UBND.

- Ngày 18/9/2019, Lê Thị Thủy T bị Ủy ban nhân dân phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp giáo dục tại phường trong thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 428/QĐ-UBND.

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự số 38/2015/HSST ngày 27/3/2015 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xử phạt Lê Thị Thủy T 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” - Tại Bản án hình sự số 129/2020/HS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xử phạt Lê Thị Thủy T hai năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo đang thi hành án đối với Bản án hình sự số 33/2020/HS-ST ngày 26/5/2020 của TAND quận Liên Chiểu kể từ ngày 16/9/2020, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

Anh Trần Văn Q, sinh năm 1994; Trú tại: Số 70 đường N, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1997; Trú tại; Tổ 57, phường H, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).

2/ Anh Ngô Văn B, sinh năm 1996, trú tại: K267/30/30 đường N, tổ 35, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 30 phút ngày 08/9/2020 , Nguyễn Văn A chở Lê Thị Thủy T đến cửa hàng bán quần áo ở số 70 N, phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng do anh Trần Văn Q làm chủ, để mua quần áo. Tại đây, trong quá trình mua quần áo, Lê Thị Thủy T phát hiện có 01 điện thoại di động hiệu Iphone X của anh Q để trên bàn tính tiền của cửa hàng nên T nảy sinh ý định trộm cắp. Do không muốn để A biết việc lấy trộm tài sản nên T nói An đi ra ngoài trước dắt xe để chuẩn bị ra về. Lợi dụng sơ hở, T đã lén lút lấy chiếc điện thoại nói trên bỏ vào túi xách của T rồi đi ngoài. T được A chở về nhà của T tại phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Sau đó, T mang điện thoại trộm cắp được đến 228 đường Kinh Dương Vương, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng gặp anh Ngô Văn B nhờ bẻ khóa mật khẩu của điện thoại. Sau khi bị mất tài sản, anh Q đã đến cơ quan Công an trình báo vụ việc. Qua truy xét, cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê xác định Lê Thị Thủy T là đối tượng đã thực hiện vụ trộm cắp tài sản nói trên, đồng thời tiến hành làm việc với anh Ngô Văn B và thu giữ được chiếc điện thoại nói trên. Theo Bản kết luận định giá tài sản ngày 11/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận Thanh Khê xác định giá trị của chiếc điện thoại di động Iphone X mà Lê Thị Thủy T trộm cắp là 8.300.000 đồng. Vật chứng tạm giữ: 01 Điện thoại di động hiệu Iphone X, màu trắng, số Imei: 35304099315538.

Theo Bản kết luận định giá tài sản ngày 11/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Thanh Khê xác định: 01 Điện thoại di động hiệu Iphone X có giá trị 8.300.000đ.

* Cáo trạng số: 165/CT-VKS-TK ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê đã truy tố Lê Thị Thủy T về tội “Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng và đề nghị:

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s, n, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xử phạt Lê Thị Thủy T từ 09 tháng đến 15 tháng tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự số 129/2020/HS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

- Về xử lý tang vật: Tang vật của vụ án Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu nên không đề nghị xem xét.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập.

* Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Thủy T không có ý kiến tranh luận đối với nội dung luận tội của Kiểm sát viên; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện chăm sóc con cái.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo thì thấy:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với các lời khai khác và chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 08/9/2020, tại 70 đường Ng, phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bị cáo Lê Thị Thủy T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Trần Văn Q một điện thoại Iphone X.

Theo Bản kết luận định giá tài sản ngày 11/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Thanh Khê xác định: 01 Điện thoại di động hiệu Iphone X có giá trị 8.300.000đ.

Do vậy có đủ cơ sở để kết luận Lê Thị Thủy T đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo có sức khỏe và khả năng lao động bình thường, đã lập gia đình có 03 con nhỏ, lẽ ra bị cáo phải làm ăn lương thiện để kiếm tiền bằng chính sức lao động của mình và làm gương cho con cái, nhưng vì cần chi tiêu sinh hoạt gia đình nên bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp. Xét về động cơ mục đích phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội chỉ mang tích chất tức thời mà không có ý định và sự chuẩn bị từ trước, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của anh Q trong việc quản lý tài sản nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Hành vi của bị cáo không những đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần được xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Ngày 26/5/2020 Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xử phạt Lê Thị Thủy T một năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo lại phạm tội do cố ý, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự cần được xem xét cho bị cáo.

Giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt là 8.300.000đ nên thuộc trường hợp gây thiệt hại không lớn; quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi ba con nhỏ trong đó có một con dưới 36 tháng tuổi và đang mang thai nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] [Xét thấy nội dung đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh, điều khoản luật và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì về phần dân sự nên không đề cập giải quyết.

 [7] Về án phí: Bị cáo Lê Thị Thủy T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Lê Thị Thủy T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1/ Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm h, s, n, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 56 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Lê Thị Thủy T: 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự số 129/2020/HS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, buộc Lê Thị Thủy T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 9 năm 2020.

2/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

Buộc Lê Thị Thủy T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc từ ngày niêm yết) bản án.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

439
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HSST ngày 22/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:11/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về