TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 11/2021/HS-PT NGÀY 24/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 03/2021/TLPT-HS, ngày 07 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo Nguyễn Tấn P (tên gọi khác: Đ), do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Vĩnh Long.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Tấn P (tên gọi khác: Đ), sinh năm 1980 tại huyện TB, tỉnh Vĩnh Long. Nơi cư trú: ấp PT, xã PT, huyện TB, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Mvà bà Nguyễn Thị Ngọc Y, vợ Nguyễn Thanh T và 01 con sinh năm 2011.
Tiền sự: Không.
Tiền án: 02 tiền án. Tại Bản án số 17/2018/HS-ST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 47/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân thị xã BM, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tổng hợp hình phạt tại Bản án số 17/2018/HS-ST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện TB, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 01 năm 03 tháng tù), chấp hành xong án phạt tù ngày 30/9/2019.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14/9/2020 đến nay và có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ ngày 20/6/2020, tại cửa hàng xăng dầu Tiger thuộc ấp P A, xã PT, huyện TB, tỉnh Vĩnh Long, Nguyễn Tấn P (có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản) đi bộ vào cửa hàng xăng dầu Tiger. P quan sát thấy có 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu trắng bạc để trên bàn phía sau trụ bơm xăng nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. P lợi dụng lúc bà Nguyễn Thị B là nhân viên cửa hàng xăng dầu đang bán hàng, không chú ý nên đã lén lút lấy trộm 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu trắng bạc của bà B rồi đi bộ ra Quốc lộ 1 về hướng cầu Ba Càng. Đến khoảng 16 giờ 10 phút cùng ngày, ông Nguyễn Văn Phúc E biết sự việc bà B mất trộm điện thoại nên cùng ông Trần Hữu N (là tài xế đang sửa ô tô tại cửa hàng xăng dầu) dùng xe mô tô truy tìm. Đến khoảng 16 giờ 20 phút cùng ngày, khi đến đoạn đường trước Trường trung học cơ sở PT thì ông Phúc E và ông Nphát hiện Nguyễn Tấn P có biểu hiện nghi vấn nên ông Phúc E hỏi P có lấy trộm điện thoại hay không và yêu cầu P trả lại điện thoại. Lúc này, P thừa nhận có lấy trộm và trả lại điện thoại trên. Ông Phúc E trình báo sự việc đến Công an xã PT.
Tang vật thu giữ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu trắng bạc, số IMEI: 352462077234090/04, có gắn ốp lưng bằng nhựa màu vàng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 48/KL.ĐGTS ngày 28/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TB kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7, có gắn ốp lưng bằng nhựa màu vàng trị giá: 530.000 đồng.
Xử lý vật chứng: Ngày 30/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TB đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 49 cùng ngày, trả lại cho bị hại Nguyễn Thị B: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu trắng bạc, số IMEI: 352462077234090/04, có gắn ốp lưng bằng nhựa màu vàng.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị B đã nhận lại tài sản bị mất trộm, không có yêu cầu gì thêm.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Vĩnh Long, đã quyết định:
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
1.1 Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1.2 Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/9/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 27/11/2020, bị cáo Nguyễn Tấn P có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như án sơ thẩm đã xử, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt do hoàn cảnh khó khăn, con còn nhỏ.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn P đã thừa nhận án sơ thẩm đã xét xử đúng hành vi phạm tội của bị cáo. Kiểm sát viên phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã xử, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó xác định vào ngày 20/6/2020 bị cáo có hành vi lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 của bà B trị giá 530.000 đồng, bản thân bị cáo đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản nhưng tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản nên án sơ thẩm xử bị về tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Xét tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo án sơ thẩm xử 01 năm tù là không nặng, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và chấp nhận đề nghị của kiểm sát viên.
[3] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn P, y án sơ thẩm.
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/9/2020.
2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 11/2021/HS-PT ngày 24/02/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 11/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về