Bản án 11/2021/HS-PT ngày 10/03/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 11/2021/HS-PT NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10/3/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 03/2021/HS-PT ngày 18 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Hoàng Tấn T, do có kháng cáo của Bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2020/HS-ST ngày 04/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Bị cáo Hoàng Tấn T sinh ngày 05/10/1963 tại xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Tấn T 1 và bà Hoàng Thị L; có vợ và 05 con; tiền án, tiền sự: Không; tại ngoại; có mặt tại phiên toà phúc thẩm.

- Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại H;

Người đại diện theo ph áp luật: Bà Hoàng Thị T; chức vụ: Giám đốc; địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn H; nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Xuân H, nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình;

Ông Nguyễn Thanh Đ, nơi cư trú: Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình;

Ông Hoàng Tấn B , nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn K , huyện L, tỉnh Quảng Bình;

Ông Nguyễn Văn Q, nơi cư trú: Tổ dân phố T , thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình;

Ông Hoàng Đình C, nơi cư trú: Tổ dân phố T , thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình;

Ông Hoàng Đình K , nơi cư trú: Tổ dân phố T , thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình;

Ông Hoàng Tấn T 2, nơi cư trú: Tổ dân phố T , thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình;

Ông Hoàng Đình V, nơi cư trú: Tổ dân phố T , thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình;

Ông Hoàng Đình C 1, nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình;

- Người làm chứng: Bà Hoàng Thị Minh N, nơi cư trú: Thôn L, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình.

Xét thấy những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng không liên quan đến việc xem xét kháng cáo của bị cáo nên cấp phúc thẩm không triệu tập đến phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 1994, hộ gia đình bị cáo Hoàng Tấn T được Hợp tác xã Th chia đất trồng lúa theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình , cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Năm 2009, sau khi diện tích đất này được bồi thường để xây dựng Đài tưởng niệm liệt sỹ thị trấn K, thì diện tích đất nói trên của hộ gia đình bị cáo còn lại là 64,9 m2.

Ngày 8/8/2017, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại H (gọi tắt là Công ty H) được Ủy ban nhân dân huyện L đồng ý về chủ trương về xin thuê đất để đầu tư, xây dựng siêu thị thương mại tổng hợp tại khu đất nằm phía Nam đường Nguyễn Tất Thành, sát tượng đài thuộc thị trấn K, sau khi chính quyền thị trấn K, cùng các hộ có ruộng tại khu vực Công ty H xin thuê đất thống nhất chủ trương trên.

Tháng 12/2017, ông Nguyễn Xuân H là cán bộ địa chính thị trấn K đề nghị Hoàng Tấn T, lúc này là chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Th lập danh sách các hộ dân có đất thuộc khu quy hoạch xây dựng siêu thị H để nhận tiền đền bù từ Công ty H . Hoàng Tấn T đã trực tiếp lập danh sách chi tiền bằng cách tự viết tay thống kê diện tích đất trồng lúa của 49 hộ dân có đất nằm trong khu vực quy hoạch, trong đó diện tích đất hộ gia đình Hoàng Tấn T được kê khai là 255 m2, trong khi diện tích thực tế là 64,9 m2. Sở dĩ việc kê khai không đúng này lúc đầu không bị phát hiện là do vào năm 2009, sau khi bị thu hồi đất để Nhà nước xây dựng Nghĩa trang liệt sỹ, gia đình Hoàng Tấn T có mượn thêm 190,1 m2 của 6 hộ gia đình khác, nên khi kê khai, Hoàng Tấn T đã kê khai đất của 6 hộ gia đình này hai lần, lần thứ nhất là kê khai diện tích của từng hộ gia đình trong danh sách 49 hộ nói trên và lần thứ hai là nhập 190,1 m2 của 6 hộ gia đình trên vào diện tích 64,9 m2 đất của hộ gia đình Hoàng Tấn T thành 255 m2.

Ngày 24/12/2017, Công ty H căn cứ vào danh sách kê khai trên đã chi trả tiền bồi thường cho các hộ có đất bị thu hồi . Hộ gia đình Hoàng Tấn T được bồi thường số tiền 61.200.000 đồng, tương ứng với diện tích đất bị thu hồi 255 m2, vượt diện tích thực tế 190,1 m2, tương ứng với số tiền 45.624.000 đồng.

Đến tháng 4/2018, Hoàng Tấn T làm thủ tục đề nghị và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 255 m2 như đã kê khai và sau đó làm thủ tục chuyển nhượng 255 m2 đất cho Công ty H.

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã tạm giữ các đồ vật, tài liệu gồm danh sách các hộ dân có đất nằm trong phạm vi thực hiện dự án Siêu thị H, tài liệu thanh tra, kiểm tra, làm việc của cơ quan chức năng, cụ thể như sau:

- 6 giấy nhận tiền bồi thường hỗ trợ đất trồng lúa mang tên các ông Nguyễn Văn Đ , Hoàng Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Q, Hoàng Tấn Q, Hoàng Tấn B.

- 01 danh sách những hộ gia đình có diện tích đất đền bù của Công ty H, viết bằng tay, đề tháng 12/2017, đề ký tên Hoàng Tấn T; 01 phiếu lấy ý kiến khu dân cư đề ngày 24/4/2018, có hình dấu màu đỏ của Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Th; 01 biên bản họp các hộ dân để thoả thuận phương án giải phóng mặt bằng xây dựng siêu thị H đề ngày 21/12/2017 (gồm 2 tờ giấy A4); 01 biên bản thống nhất cam kết quy chủ sử dụng đất để thực hiện trích đo giải phóng mặt bằng xây dựng siêu thị H đề ngày 25/12/2017, có hình dấu màu đỏ của Công ty H và Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ Nông nghiệp Th.

- 1 giấy nhận tiền bồi thường hỗ trợ đất trồng lúa đề ngày 24/12/2017 mang tên Hoàng Tấn T; 1 danh sách nhận đủ tiền bồi thường tài sản trên đất và đất theo hình thức thoả thuận chuyển nhượng để thực hiện dự án siêu thị thương mại H, gồm 3 tờ giấy A4; 01 biên bản giao nhận tiền hỗ trợ giữa Công ty H và Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Th đề ngày 9/1/2018.

- 1 nghị quyết Đại hội Đại biểu thường niên tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2018, phương hướng sản xuất năm 2019, có hình dấu màu đỏ của Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Th; 1 sổ kế toán tổng hợp đội 1 năm 2017 của Hợp tác xã Th; 1 sổ kế toán tổng hợp đội 1 năm 2016 của Hợp tác xã Th.

Cơ quan điều tra đã trả lại cho Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Th các giấy tờ sau: 1 quyển sổ bìa có dòng chữ “Sổ kế toán tổng hợp”, “Đội 1 (2016)”, 1 quyển sổ bìa có dòng chữ “Sổ kế toán tổng hợp” , “Đội 1”, “Năm 2017”; 1 Nghị quyết Đại hội đại biểu thường niên tổng kết sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2018 - Phương hướng sản xuất năm 2019, có hình dấu màu đỏ của Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Th.

Hoàng Tấn T đã tự nguyện nộp lại số tiền 45.624.000 đồng cho cơ quan điều tra để khắc phục hậu quả.

Bản cáo trạng số 60/CT-VKSNDLT ngày 6/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy truy tố bị cáo Hoàng Tấn T về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2020/HS-ST ngày 04/12/2020 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình đã quyết định:

Căn cứ Điều 174 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Hoàng Tấn T phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Tấn T 06 tháng tù , thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự : Áp dụng các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại H số tiền 45.624.000 đồng theo ủy nhiệm chi của Công an huyện Lệ Thủy lập ngày 16/11/2020, được mô tả theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2020 giữa Công an huyện Lệ Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy.

Về vật chứng: Lưu theo hồ sơ vụ án tài liệu, chứng cứ gồm:

- 6 giấy nhận tiền bồi thường hỗ trợ đất trồng lúa mang tên các ông Nguyễn Văn Đ, Hoàng Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Q, Hoàng Tấn Q, Hoàng Tấn B.

- 01 danh sách những hộ gia đình có diện tích đất đền bù của Công ty H, viết bằng tay, đề tháng 12/2017, đề ký tên Hoàng Tấn T; 01 phiếu lấy ý kiến khu dân cư đề ngày 24/4/2018, có hình dấu màu đỏ của Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Th; 01 biên bản họp các hộ dân để thoả thuận phương án giải phóng mặt bằng xây dựng siêu thị H đề ngày 21/12/2017 (gồm 2 tờ giấy A4); 01 biên bản thống nhất cam kết quy chủ sử dụng đất để thực hiện trích đo giải phóng mặt bằng xây dựng siêu thị H đề ngày 25/12/2017, có hình dấu màu đỏ của Công ty H và Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ Nông nghiệp Th.

- 1 giấy nhận tiền bồi thường hỗ trợ đất trồng lúa đề ngày 24/12/2017 mang tên Hoàng Tấn T; 1 danh sách nhận đủ tiền bồi thường tài sản trên đất và đất theo hình thức thỏa thuận chuyển nhượng để thực hiện dự án siêu thị thương mại H, gồm 3 tờ giấy A4; 01 biên bản giao nhận tiền hỗ trợ giữa Công ty H và Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Th đề ngày 9/1/2018.

Án sơ thẩm còn tuyên việc chịu án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo.

Ngày 10/12/2020, bị cáo Hoàng Tấn T có kháng cáo, nội dung đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 8/3/2021, Công ty H có đơn, nội dung đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo vì mức hình phạt mà Bản án sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là thoả đáng, đồng thời tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo không có tình tiết gì mới để được xem xét giảm nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nội dung vụ án mà Bản án sơ thẩm xác định hoàn toàn phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, cũng như lời khai của bị cáo Hoàng Tấn T tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, theo đó bị cáo Hoàng Tấn T đã lợi dụng việc ông Nguyễn Xuân H cán bộ địa chính thị trấn K nhờ lập danh sách và thống kê diện tích đất của 49 hộ dân thuộc diện được đền bù do việc xây dựng siêu thị H để kê khai gian dối diện tích đất của gia đình mình từ 64,9 m2 lên thành 255 m2, từ đó chiếm đoạt được số tiền 45.624.000 đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại H. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi phạm tội mà bị cáo Hoàng Tấn T đã thực hiện đúng như xác định tại Bản án sơ thẩm của TAND huyện Lệ Thủy và tại phần nội dung của Bản án phúc thẩm này.

[2]. Bị cáo là người được nhờ lập danh sách và thống kê diện tích đất của các hộ dân được đền bù do việc xây dựng Siêu thị H, không phải là người có trách nhiệm theo quy định định pháp luật về việc lập danh sách này; đồng thời số tiền bị cáo chiếm đoạt trên 2 triệu đồng nhưng chưa đến 50 triệu đồng, do đó án sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản để xét xử bị cáo là đúng pháp luật.

[3]. Bị cáo đã có hành vi gian dối, kê khai tài sản được đền bù nhiều hơn thực tế để chiếm đoạt của Công ty H số tiền 45.624.000 đồng. Tuy vậy, thủ đoạn phạm tội của bị cáo rất đơn giản, rất dễ bị phát hiện và không thể thực hiện được nếu những người có trách nhiệm, cũng như bị hại là Công ty H thực hiện việc kiểm tra lại diện tích đất thực tế trong quá trình làm thủ tục đền bù. Việc chấp nhận quá dễ dàng số diện tích đất Hoàng Tấn T kê khai thêm đối với gia đình mình để được nhận tiền đền bù vượt quá 45.624.000 đồng, dẫn đến để xảy ra vụ án có một phần trách nhiệm lớn của những người có chức trách, nhiệm vụ trong việc thực hiện dự án xây dựng Siêu thị H. Đây là tình tiết làm giảm đáng kể tính chất chất nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Tấn T mà Toà án cấp phúc thẩm thấy rằng cần xem xét thêm cho bị cáo.

[4]. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm Công ty H có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo, vì cho rằng mức án 06 tháng tù mà Toà án cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là quá nghiêm khắc. Đây được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới đối với bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Bị cáo có nhân thân tốt; đồng thời với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo và các phân tích tại các đoạn [4], [5] nói trên, thấy rằng có thể áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, giữ nguyên hình phạt 6 tháng tù, nhưng chuyển cho bị cáo được hưởng án treo.

[6]. Các nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị cần được giữ nguyên.

[7]. Cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm nên theo Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án, không buộc bị cáo Hoàng Tấn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, sửa án sơ thẩm như sau:

Căn cứ khoản 1 Điều 174; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo Hoàng Tấn T 6 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 1 năm, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (10/3/2021) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Giao Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục bị cáo Hoàng Tấn T trong thời gian thử thách án treo. Trong trường hợp bị cáo Hoàng Tấn T thay đổi nơi cư trú, Ủy ban nhân dân thị trấn K thực hiện việc thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 2 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Bị cáo Hoàng Tấn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, nhưng không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (10/3/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

396
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/HS-PT ngày 10/03/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:11/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về