TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 11/2021/HS-PT NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 09 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 10/2021/TLPT-HS ngày 27 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn P do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 41/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn P, sinh năm 1976, tại An Giang. Nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Lê Thị S (đã ly hôn) và có 02 con: lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2005; hiện đang chung sống như vợ chồng với Phạm Thị Thu T và có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 28 tháng 7 năm 2020 cho đến nay và có mặt tại phiên tòa
- Bị hại: Bà Đỗ Thị B, sinh năm 1956. Nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Phạm Thị Thu T, sinh năm 1978. Nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang. (Có mặt) (Trong vụ án, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Văn P chung sống như vợ chồng với bà Phạm Thị Thu T vào năm 2013 tại ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang. Đến khoảng tháng 02/2020, giữa bị cáo và Thủy thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tranh chấp tài sản chung. Khoảng 18 giờ ngày 14/5/2020, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 67M1-085.86 về đến nhà tại ấp V, xã V thì T lớn tiếng chửi bị cáo về việc không cho T bán đất dẫn đến hai người cãi nhau, lúc này Trần Phạm Duyên N (con riêng của T) cầm bình xịt côn trùng ném trúng vào tay của bị cáo nên bị cáo đi ra phía trước nhà lấy khúc gỗ dài khoảng 1,4m đi vào thách thức đánh nhau thì được Đỗ Thị B (mẹ ruột T) đến khuyên can, khi này bị cáo cầm khúc gỗ trên hai tay đánh 02 cái theo hướng từ trên xuống trúng vào đầu, tay bà B làm bà B té ngã xuống nền gạch; còn T, N, Phạm Thanh T xông vào bênh vực bà B nên cũng bị bị cáo đánh nhiều cái trúng vào vùng đầu, tay, đùi, bụng. Lúc này, T giật được khúc gỗ trên tay bị cáo đưa cho N ném bỏ, thì bị cáo tiếp tục chạy ra phía trước nhặt lại khúc gỗ cầm trên tay trái, đồng thời nhặt mảnh bê tông ném trúng vào mặt Ngọc gây thương tích nhẹ. Riêng bà B chạy ra đường lộ bị vấp chân té ngã, bị cáo cầm cây đánh thêm một cái theo hướng từ trên xuống, bà B đưa hai tay lên chống đỡ nên trúng vào cằm, tay. Thấy bà B bị đánh, T chạy ra can ngăn, giật lấy khúc gỗ đưa cho Nguyễn Thị Tiểu N ném bỏ xuống kênh Tròn. Sau đó, bị cáo đến Công an xã V đầu thú. Riêng, bà B được mọi người đưa đến Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang cấp cứu, điều trị đến ngày 22/5/2020 thì ra viện.
Vật chứng thu giữ: Một chai bằng kim loại màu xanh, vàng (bình xịt côn trùng) cao 25,5cm cùng các đồ vật có liên quan.
Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 246/20/TgT ngày 10/6/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang, kết luận: Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo đính - trán trái kích thước (06 x 0.2) cm, đứng dọc, nham nhở, đoạn đính dài 04cm, đoạn trán dài 02 cm; sây sát - bầm máu cằm phải không tồn tại; vết thương đốt 1 ngón I bàn tay phải không tồn tại sẹo; gãy đầu dưới xương quay trái - điều trị bảo tồn; sẹo lòng bàn tay vòng qua kẻ ngón I - II bàn tay trái kích thước (5.5 x 0.4)cm, nham nhở. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%.
Tại Bản cáo trạng số 42/CT-VKSTS ngày 13/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu. Sau khi bị cáo dùng khúc gỗ đánh bà Đỗ Thị B gây thương tích thì bị cáo đến công an xã Vĩnh Khánh đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.
Bị hại Đỗ Thị B trình bày phù hợp với nội dung vụ án đã nêu. Bà B đã nhận số tiền bồi thường 4.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu bị cáo bồi thường thêm cho bà số tiền chi phí điều trị, tiền công lao động, tiền tổn thất tinh thần, tổng cộng là 30.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thu T trình bày phù hợp với nội dung vụ án đã nêu. Việc bị cáo sử dụng khúc gỗ, mảnh bê tông ném và đánh bà gây thương tích, do vết thương bị sây sát nhẹ nên bà từ chối giám định, bà không yêu cầu xử lý hình sự và không yêu cầu bồi thường đối với bị cáo.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2020/HS-ST ngày 23 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang đã quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28 tháng 7 năm 2020.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự, dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 04/01/2021, bị cáo Nguyễn Văn P có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và thừa nhận hành vi đã gây thương tích cho bị hại như cấp sơ thẩm xét xử. Ngoài ra, bị cáo trình bày gia đình bị cáo có công với Cách mạng nhưng bị cáo không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh và cũng không nêu được tình tiết giảm nhẹ nào khác.
Bị hại bà B có ý kiến: Bị cáo đã có hành vi gây thương tích cho bà, hiện tại sức khỏe vẫn có bị ảnh hưởng khi thời tiết lạnh; mức hình phạt cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là quá nhẹ. Bà mong thời gian chấp hành hình phạt bị cáo có suy nghĩ về hành vi đã gây ra thương tích cho bà để hối cải. Tuy nhiên, nay bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bà yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T có ý kiến: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về hành vi cố ý gây thương tích cho bà B là đúng. Việc bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bà không có ý kiến.
Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố nhà nước tại phiên tòa phát biểu quan điểm về vụ án và đề xuất với Hội đồng xét xử:
- Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn P kháng cáo trong hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo để xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai bị hại, lời khai của chính bị cáo giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ xác định: Nguyễn Văn P đã có hành vi dùng khúc gỗ đánh vào vùng đầu, cằm, tay của bị hại gây thương tích với tỉ lệ 13% (mười ba phần trăm). Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo tội “Cố ý gây thương tích” và đánh giá đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân để xét xử bị cáo 03 năm tù là phù hợp, có căn cứ và đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo vẫn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp chứng cứ gì mới. Việc bị cáo trình bày gia đình có công với Cách mạng nhưng không có tài liệu chứng minh xem xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn P, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo chịu án phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị cáo Nguyễn Văn P kháng cáo trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo để giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung vụ án:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 15/5/2020 (kèm bản ảnh hiện trường, sơ đồ hiện trường), kết luận giám định pháp y về thương tích số 246/20/TgT ngày 10 tháng 6 năm 2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh An Giang: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13% đối với bị hại Đỗ Thị B; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đầy đủ căn cứ xác định: Ngày 14 tháng 5 năm 2020, bị cáo Nguyễn Văn P đã có hành vi dùng khúc gỗ đánh vào vùng đầu, cằm, tay của bị hại Đỗ Thị B gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 13%.
[3] Căn cứ vào quy định của pháp luật thì hành vi của bị cáo Nguyễn Văn P đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh này theo điểm đ khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết được việc nào đúng, giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn, lẽ ra khi giữa bị cáo với bà Phạm Thị Thu T (chung sống như vợ chồng với bị cáo) và Trần Phạm Duyên N (con riêng của T) cự cãi nhau được bị hại bà Đỗ Thị B (mẹ ruột T) đến khuyên can thì bị cáo phải biết dừng lại; nhưng bị cáo không chọn cách xử sự phù hợp mà sử dụng khúc gỗ dài khoảng 1,4m cầm trên hai tay đánh theo hướng từ trên xuống trúng vào đầu, tay của bị hại gây thương tích với tỷ lệ 13% là hành vi nguy hiểm. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, khi quyết định hình phạt đã xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo xuất thân từ thành phần lao động, không biết chữ, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế, chưa có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn, hối cải; sau khi vụ án xảy ra bị cáo đã đã đến cơ quan công an đầu thú và đã vận động gia đình bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại được số tiền 4.000.000 đồng, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù là phù hợp với quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào khác mà chưa được cấp sơ thẩm xem xét. Đồng thời, việc bị cáo trình bày gia đình có người có công với Cách mạng nhưng cũng không đưa ra được tài liệu chứng cứ để chứng minh nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét.
[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa.
[6] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn P, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính từ ngày 28/7/2020 (ngày hai mươi tám, tháng bảy, năm hai nghìn không trăm hai mươi).
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2020/HS-ST ngày 23 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 11/2021/HS-PT ngày 09/03/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 11/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về