TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 341/2020/TLST-HNGĐ, ngày 10-12-2020 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
04/2021/QĐST–HNGĐ, ngày 04-01-2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Thanh G, sinh năm 1991. Địa chỉ: thị trấn t, huyện T, tỉnh Long An. (có mặt)
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1993. Địa chỉ: thị trấn t, huyện T, tỉnh Long An vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 01-12-2020 và tại phiên toà, nguyên đơn ông Trần Thanh G trình bày:
Ông G và bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim C quen và tổ chức lễ cưới vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Thủ Thừa, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận kết hôn số 12/2012 ngày 17-02-2012. Ông G và bà C sống không có hạnh phúc, nguyên nhân là do ông G và bà C không hiểu và không cùng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau. Ông G và bà C ly thân từ đầu năm 2019 đến nay, trong thời gian ly thân ông G và bà C không sắp xếp để vợ chồng hàn gắn. Ông G xét thấy vợ chồng không còn yêu thương nhau, mâu thuẫn ngày càng nghiêm trọng, cuộc sống không hạnh phúc nên ông G yêu cầu ly hôn với bà C.
Về nuôi con chung: Ông G yêu cầu được nuôi 01 con chung là Trần Nguyễn Nhã P, sinh ngày 20-10-2015. Ông G không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: ông G không yêu cầu Tòa án giải quyết Bị đơn bà Nguyễn Thị Kim C trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn vắng mặt, không làm bản tự khai không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào và không có ý kiến phản hồi hay yêu cầu gì đối với việc khởi kiện của ông G, cũng như vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, theo lời trình bày của các bên và tài liệu đã thu thập được xác định:
[1] Tranh chấp giữa ông Trần Thanh G với bà Nguyễn Thị Kim C là tranh chấp về ly hôn. Căn cứ vào nơi cư trú của bị đơn, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Long An theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn bà Nguyễn Thị Kim C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt, căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt bà Nguyễn Thị Kim C.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Thanh G với bà Nguyễn Thị Kim C kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Thủ Thừa, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận kết hôn số 12/2012 ngày 17-02-2012 là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn giữa ông G và bà C ngày càng nghiêm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên ông G khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà C. Sau khi thụ lý đơn khởi kiện của ông G, Tòa án đã thông báo cho bà C biết và mở phiên hòa giải nhiều lần nhằm để tạo điều kiện cho bà C và ông G giải quyết những bất đồng, hàn gắn lại tình cảm vợ chồng nhưng bà C không tham gia. Tại phiên tòa ông G kiên quyết xin ly hôn với bà C. Xét hôn nhân giữa ông G và bà C lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của ông G đối với bà C.
[4] Về nuôi con chung: Ông G yêu cầu được nuôi 01 con chung là Trần Nguyễn Nhã P, sinh ngày 20-10-2015. Ông G không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án cháu Phương có nêu nguyện vọng được sống với ông G. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử thấy giao con chung cho ông G tiếp tục nuôi là phù hợp, bà Nguyễn Thị Kim C không phải cấp dưỡng nuôi con do ông G không yêu cầu.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Ông G không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
[6] Về án phí sơ thẩm: ông Trần Thanh G là nguyên đơn nên phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của ông Trần Thanh G đối với bà Nguyễn Thị Kim C.
Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Thanh G được ly hôn với bà Nguyễn Thị Kim C.
Về nuôi con chung: Giao ông G trực tiếp nuôi 01 con chung tên Trần Nguyễn Nhã P, sinh ngày 20-10-2015, bà C không phải cấp dưỡng nuôi con. Mặc dù không được trực tiếp nuôi con chung nhưng bà C có quyền thăm, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Ông Trần Thanh G không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí sơ thẩm: Ông Trần Thanh G phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số 0007613 ngày 10-12-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Long An; Ông Trần Thanh G đã nộp đủ án phí.
Án xử sơ thẩm công khai, ông Trần Thanh G có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Nguyễn Thị Kim C vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 11/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Hóa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về