Bản án 11/2021/DS-ST ngày 13/04/2021 về tranh chấp tiền họ (hụi)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 11/2021/DS-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ TRANH CHẤP TIỀN HỌ (HỤI)

Ngày 13 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2020/TLST- DS ngày 13 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp tiền họ (hụi)theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2021/QĐST-DS ngày 23 tháng 3 năm 2021, giữa:

Nguyên đơn: Bà Trương Thị N, sinh năm: 1972 (có mặt);

Địa chỉ: Tổ 20, ấp P, xã T, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị đơn: Bà Phùng Thị S, sinh năm: 1959 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số nhà 87 tổ 3, ấp P, xã T, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02-10-2020 và trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà Trương Thị N trình bày:

Ngày 30-7-2019 âm lịch, (tháng 7 không có ngày 30 âm lịch, nhưng vẫn thống nhất để ngày 30, vì theo thỏa thuận mỗi kỳ họ là 30 ngày nên sau khi kết thúc dây họ trước thì mở tiếp dây họ sau nên ghi là ngày 30/7 âm lịch, nhưng thực tế là ngày 01-8-2019 âm lịch (ngày 30-8-2019 dương lịch)), bà Trương Thị N mở một dây họ có 19 thành viên tham gia, gồm 20 phần họ (trong đó có một thành viên tham gia hai phần), mỗi phần họ là 1.000.000đ, gồm: Bà Hoa (bà Phùng Thị S, gọi theo tên của chồng), bà Chính Bột, ông Tâm (tham gia hai phần), bà 2 Đoàn, bà Bé Hai, bà Nga, bà Chính (do bà Nga chơi giùm), bà Thương, bà Thảo (con bà 5 Huệ), bà Hồng, mẹ của bà Hồng (không biết tên, sau đó chuyển giao sang cho bà S), ông Lũy, bà N (bà Trương Thị N, đã chuyển giao cho bà Thương), ông Thái (đã chuyển giao cho bà Thảo), ông Bi (đã chuyển giao cho ông Sáu), bà Bảy, bà Phi, ông Cúc Quang (đã chuyển giao cho bà Hà), bà Bạch (đã chuyển giao cho bà Bảy). Những thành viên tham gia trong dây họ, bà N không biết họ tên chính xác của họ mà chỉ biết họ tên đầy đủ của bà S là Phùng Thị S còn những người khác thì không biết. Trong quá trình chơi mẹ của bà Hồng già yếu không có khả năng tham gia nên chuyển giao lại phần họ của mình lại cho bà S nên trong dây họ này bà S tham gia 02 phần và có một số thành viên tham gia nhưng vì cần tiền mà không được lĩnh họ nên đã chuyển giao phần họ của mình cho người khác.

Theo thỏa thuận đến kỳ mở họ hàng tháng ai là người trả cao nhất thì được lĩnh họ và sau đó hàng tháng tiếp tục đóng góp phần họ theo thỏa thuận (còn gọi là họ chết), cứ như vậy cho đến thành viên cuối cùng lĩnh họ. Tại kỳ mở họ lần thứ nhất ngày 01-8 âm lịch bà S là người trả lãi cao nhất nên được lĩnh họ, nhưng bà N không nhớ chính xác là bà S trả lãi bao nhiêu khoảng 300.000đ đến 350.000đ. Đến ngày 05-8 âm lịch, sau khi nhận đủ tiền từ những thành viên tham gia, (nhưng không nhớ là bao nhiêu) bà N đã giao tiền cho bà S và sau khi nhận tiền bà S có ghi vào trong sổ của bà N xác nhận với nội dung:

“30/7 Hụi gồm có 20 phần, tôi tên Phùng Thị S có chơi hụi với cô 5 (hụi 1 triệu) 20 phần hụi ra ngày 30/7/2019” và ghi ngày 5-8-2019 âm lịch, ký và ghi rõ họ tên Phùng Thị S.

Thời gian đầu hàng tháng bà S đều góp phần họ đầy đủ và đến kỳ mở họ thứ 10 vào ngày 30-4 năm Canh Tý bà S người trả lãi cao nhất là 280.000đ nên được lĩnh họ. Sau khi nhận đủ số tiền được lĩnh bà S viết vào sổ của bà N xác nhận với nội dung:

“Tôi tên Phùng Thị S có chơi của em N 02 phần hụi ngày 30-7-2019 đã hốt hết 02 phần, hàng tháng tôi phải đóng hụi chết là 2 triệu”, ký và ghi rõ họ tên Phùng Thị S.

Lần này trong giấy xác nhận bà S không ghi ngày tháng, nhưng ngày lĩnh họ là ngày 30-4 (tháng tư trước, do năm nhuần nên có hai tháng tư), lý do bà S ghi chơi hai phần họ là ghi luôn cả phần đã lĩnh từ trước.

Sau khi lĩnh họ ngày 30-4 thì bà S bỏ trốn không góp phần họ theo thỏa thuận để giao cho các thành viên tham gia trong họ chưa được lĩnh họ nên bà N là chủ họ hàng tháng phải bỏ tiền ra góp thay bà S cho đến khi kết thúc họ. Vì vậy, bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà S phải hoàn trả số tiền chưa góp của 10 kỳ họ, mỗi kỳ 2.000.000đ tổng cộng là 20.000.000đ.

Bị đơn bà Phùng Thị S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì.

Theo kết quả xác minh thì bà Phùng Thị S đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 20, ấp Phước Trung, xã Tam Phước, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nhưng không có mặt tại địa phương từ đầu năm 2020 đến nay.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị đơn đã được triệu tập hộp lệ lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người gia tố tụng:

Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 471 Bộ luật dân sự; các điều 9, 10, 11, 12, 13, 16 và 17 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19-02-2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà S phải hoàn trả cho bà N 20.000.000đ tiền họ (hụi).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án:

[1.1] Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp với bị đơn số tiền phát sinh từ dây họ mở ngày 01-8 âm lịch (ngày 30-8-2019 dương lịch) được xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp về tiền họ (hụi)”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

[2.1] Theo các tài liệu do nguyên đơn giao nộp thể hiện ngày 01-8 âm lịch (ngày 30-8-2019 dương lịch), bà N mở 01 dây họ có 19 thành viên tham gia, gồm 20 phần họ (có một thành viên tham gia hai phần), mỗi phần họ là 1.000.000đ. Trong quá trình tham gia có một số thành viên do cần tiền nhưng không được lĩnh họ nên đã chuyển giao phần họ của mình cho người khác, trong đó có của mẹ bà Hồng đã chuyển giao phần họ của mình cho bà S (trong họ này bà S tham gia 02 phần). Theo thỏa thuận đến kỳ mở họ ai là người trả lãi cao nhất thì được lĩnh họ và sau đó hàng tháng phải đóng góp phần họ cho đến khi kết thúc họ. Tại kỳ mở họ thứ nhất ngày 01-8 âm lịch bà S là người trả lãi cao nhất nên được lĩnh họ. Đến ngày 05-8 âm lịch, sau khi nhận đủ tiền bà S có ghi vào trong sổ của bà N xác nhận với nội dung: “30-7 Hụi gồm có 20 phần, tôi tên Phùng Thị S có chơi hụi với cô 5 (hụi 1 triệu) 01 phần hụi ra ngày 30-7-2019” và ghi ngày 5-8-2019 âm lịch, ký và ghi rõ họ tên Phùng Thị S.

[2.2] Thời gian đầu bà S đều góp phần họ đầy đủ và đến kỳ mở họ thứ 10 mở vào ngày 30-4 năm Canh Tý bà S là người trả lãi cao nhất là 280.000đ nên được lĩnh họ. Sau khi nhận đủ số tiền bà S viết vào sổ của bà N xác nhận với nội dung: “Tôi tên Phùng Thị S có chơi của em N 02 phần hụi ngày 30-7-2019 đã hốt hết 02 phần, hàng tháng tôi phải đóng hụi chết là 2 triệu”.

[2.3] Tại kỳ họ mở ngày 30/4 âm lịch bà S là người trả lãi cao nhất nên được lĩnh họ sau đó bỏ trốn không góp phần họ theo thỏa thuận nên bà N có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc phải hoàn trả 10 phần họ với số tiền 20.000.000đ. Trong quá trình tố tụng bà S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng không đến làm việc, vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật. Như vậy, bị đơn đã từ bỏ nghĩa vụ chứng minh của minh nên phải chịu hậu quả về việc vắng mặt và việc không cung cấp tài liệu, chứng cứ.

[2.4] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do phía nguyên đơn xuất trình, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bà S có tham gia trong họ do bà N làm chủ mở ngày 01-8-2019 âm lịch và sau khi lĩnh họ tại kỳ mở họ ngày 30-4 âm lịch (tháng 4 trước) bà S cố tình bỏ trốn khỏi địa phương không góp phần họ theo thỏa thuận để chủ họ trả cho các thành viên khác nên bà N phải tự bỏ tiền ra góp thay để giao cho các thành viên chưa lĩnh họ.

[2.5] Theo quy định tại các điều 4, 16 và 17 của Nghị định số 19/2019/NĐ- CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Khoản 3 Điều 4 “… 3. Chủ họ là người tổ chức, quản lý dây họ, thu các phần họ và giao các phần họ đó cho thành viên được lĩnh họ trong mỗi kỳ mở họ cho tới khi kết thúc dây họ …” Điểm c khoản 1 Điều 16 “c. Tiếp tục góp các phần họ để các thành viên khác được lĩnh họ cho đến khi thành viên cuối cùng lĩnh họ trong trường hợp đã lĩnh họ trước thành viên khác …” Điểm a khoản 2 Điều 16 “a. Các nghĩa vụ quy định tại khỏan 1 Điều này” Điểm b khoản 1 Điều 17“ b. Yêu cầu thành viên không góp phần họ của mình phải trả phần họ trong trường hợp chủ họ đã góp thay cho thành viên đó”.

Điểm a khoản 2 Điều 17 “a. Các quyền quy định tại khoản 1 Điều này” [2.6] Như vậy, theo quy định nói trên thì bà N là chủ họ nên phải có nghĩa vụ thu các phần họ của các thành viên tham gia trong họ để giao lại các phần họ cho thành viên lĩnh họ đến kỳ lĩnh họ. Sau khi lĩnh họ tại kỳ họ mở lần thứ 10, bà S không góp phần họ để các thành viên khác được lĩnh họ nên bà N là chủ họ đã góp thay bà S để giao cho các thành viên chưa được lĩnh họ. Theo đó dây họ có 20 phần, tại kỳ mở họ ngày 30/4 bà S lĩnh họ, nhưng sau đó không góp phần họ cho đến khi thành viên cuối cùng lĩnh họ là 10 kỳ, mỗi kỳ 2.000.000đ tương đương với số tiền 20.000.000đ. Vì vậy, bà N khởi kiện yêu cầu bà S phải hoàn trả lại số tiền đã góp là có cơ sở chấp nhận.

[2.7] Từ những nhận định và phân tích nêu trên cần tuyên xử buộc bà S phải hoàn trả cho bà N 20.000.000đ.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Mặc dù bà S là người trên 60 tuổi, nhưng không có đơn xin miễn án phí nên phải chịu 20.000.000đ x 5% = 1.000.000đ án phí. Bà N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tố tụng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 357, 471 và 468 của Bộ luật dân sự; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19- 02-2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị N đối với bà Phùng Thị S về việc tranh chấp tiền họ.

Buộc bà Phùng Thị S phải hoàn trả cho bà Trương Thị N 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ trả tiền nêu trên thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả cho bên được thi hành án một khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Phùng Thị S phải nộp 1.000.000 (một triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

- Bà Trương Thị N được hoàn trả 500.000 (năm trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2020/0004178 ngày 05-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

3. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

“Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/DS-ST ngày 13/04/2021 về tranh chấp tiền họ (hụi)

Số hiệu:11/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về