Bản án 11/2021/DS-ST ngày 04/03/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 11/2021/DS-ST NGÀY 04/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 244/2020/TLST- DS ngày 02 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXX-ST ngày 11 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐST-DS ngày 04/02/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Trịnh Thị D, sinh năm 1963;

Địa chỉ: Khu 2, thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Ông Võ Minh D1, sinh năm 1976;

Địa chỉ: Ấp Mỹ Lương, xã Mỹ Hạnh Đông, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. (Bà D có mặt; ông D1 vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong suốt quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trịnh Thị D trình bày:

Từ năm 2009 đến năm 2013 bà D có giao dịch mua bán hàng hóa là phân bón với ông D1. Sau khi kết toán sổ sách thì ông D1 còn nợ bà số tiền là 47.115.000 đồng, đồng thời hai bên đã ngừng mọi giao dịch mua bán từ đó cho đến nay.

Bà D có nhiều làn yêu cầu ông D1 thanh toán số tiền mua hàng hóa còn nợ là 47.115.000 đồng nhưng ông D1 cứ hẹn lần lựa kéo dài gây thiệt hại cho bà D.

Nay bà Trịnh Thị D yêu cầu ông Võ Minh D1 thanh toán cho bà D số tiền mua bán hàng hóa còn nợ là 47.115.000 đồng và tính lãi suất 0,75%/ tháng từ tháng 01/2013 cho đến ngày xét xử và trả 01 lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn ông Võ Minh D1 không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà D mặc dù Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng đúng qui định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn ông D1 vắng mặt không rõ lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là ông Võ Minh D1 vắng mặt. Xét thấy, bị đơn là ông Võ Minh D1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt và cũng không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đồng thời bị đơn không có yêu cầu phản tố. Cho nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ: Tại bản chính biên nhận nợ không đề ngày tháng năm do bà D cung cấp và biên bản hòa giải ngày 18/7/2019 tại trụ sở ấp Mỹ Lương, xã Mỹ Hạnh Đông, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang thì ông Võ Minh D1 thừa nhận có giao dịch mua bán hàng hóa với bà Trịnh Thị D nay còn nợ lại số tiền 47.115.000 đồng là đúng. Ngoài ra Tòa án đã được sao chụp các chứng cứ tài liệu nêu trên gửi cho ông D1 nhưng ông cũng không có ý kiến phản đối, phản bác đối với yêu cầu khởi kiện, chứng cứ mà bà D đưa ra. Như vậy ông D1 mặc nhiên thừa nhận yêu cầu khởi kiện cùng chứng cứ do phía bà D đưa ra là đúng. Do đó có đủ cơ sở xác định buộc ông D1 trả số tiền 47.115.000 đồng mua bán hàng hóa cho bà D là phù hợp.

[3] Yêu cầu tính lãi suất: Nguyên đơn có yêu cầu tính lãi suất phát sinh từ tháng 01/2013 trên số tiền nợ 47.115.000 đồng đến ngày xét xử (tương đương 8 năm 03 tháng) với mức 0,75%/tháng. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của nguyên đơn nhằm tạo điều kiện trả nợ cho bị đơn nên tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, đồng thời mức lãi suất này cũng nằm trong giới hạn quy định pháp luật phù hợp với Điều 468 Bộ luật dân sự nên được chấp nhận. Số tiền cụ thể được tính như sau:

Số tiền 47.115.000 đồng x 0,75%/tháng x 8 năm 03 tháng = 34.982.000 đồng.

Như vậy, ông D1 phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà D tổng tiền mua bán hàng hóa và tiền lãi là 47.115.000 đồng + 34.982.000 đồng = 82.097.000 đồng.

[4] Về án phí DSST: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào các Điều 357, 430, 433, 440 và 468 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị D.

Buộc ông Võ Minh D1 trả cho bà Trịnh Thị D 82.097.000 đồng tiền mua bán hàng hóa còn nợ và tiền lãi.

Kể từ ngày bà D có đơn yêu cầu thi hành, nếu ông D1 chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi theo quy định của pháp luật đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí:

Hoàn lại cho bà Trịnh Thị D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.247.000 đồng theo biên lai thu số 0006509 ngày 28/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy.

Ông Võ Minh D1 phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 4.104.000 đồng.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thời hạn nêu trên được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

375
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2021/DS-ST ngày 04/03/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:11/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:04/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về