Bản án 11/2020/HSST ngày 12/03/2020 về tội gá bạc và đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM X, TỈNH HÀ T

BẢN ÁN 11/2020/HSST NGÀY 12/03/2020 VỀ TỘI GÁ BẠC VÀ ĐÁNH BẠC

Chiều ngày 12 tháng 3 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Cẩm X mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 62 ngày 23 tháng 12 năm 2019. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/HSST, ngày 27 tháng 2 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Cẩm X đối với các bị cáo:

1.Hoàng Văn H, Tên gọi khác: Không, Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1991, tại xã Cẩm Huy, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩ; Nơi đăng ký HKTT: Thôn Bắc Hữu Quyền, xã Cẩm H, huyện Cẩm X, tỉnh Hà T (Nay sát nhập thành thị trấn Cẩm X, huyện cẩm X, tỉnh Hà T); Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Hoàng Văn Hồng; Sinh năm 1966; Nghề nghiệp: Hưu trí; Con bà: Dương Thị Mai; Sinh năm 1964; Nghề nghiệp: Hưu trí; Hiệnbố và mẹ trú tại thôn Nam Hữu Quyền, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Anh chị em ruột: có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Đào Thị Thanh Huệ; Sinh năm: 1991; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Hiện trú tại: thôn Nam Hữu Quyền, Thị trấn Cẩm Xuyên, huyện cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên tạm giữ kể từ ngày 18/7/2019, đến ngày 21/7/2019 khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2.Hoàng Hữu B, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 06 tháng 6 năm 1989, tại xã Cẩm H, huyện Cẩm X, tỉnh Hà T; Nơi đăng ký HKTT: Thôn Nam Hữu Quyền, xã Cẩm H, huyện Cẩm X, tỉnh Hà T (Nay sát nhập thành thị trấn Cẩm Xuyên, huyện cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh); Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Hoàng Trọng Kiều; Sinh năm 1956; Con bà: Trần Thị Liêm; Sinh năm 1956; Cả bố và mẹ hiện làm ruộng và trú tại Thôn Nam Hữu Quyền, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Anh chị em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Lương Thị Quyết; Sinh năm 1994; Nghề nghiệp: lao động tự do; Hiện trú tại thôn Nam Hữu Quyền, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Con: Có 02 đứa, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên tạm giữ kể từ ngày 18/7/2019 đến ngày 21/7/2019 khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

3. Phan Văn H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 25 tháng 3 năm 1990, tại Thị trấn Cẩm X, huyện Cẩm X, tỉnh Hà T; Nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố 14, Thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Phan Văn Đại; Sinh năm 1962; Nghề nghiệp: Cán bộ điện lực huyện Cẩm Xuyên; Con bà:

Nguyễn Thị Bảo Ngọc; Sinh năm 1964; Nghề nghiệp: Hưu trí; Hiệnbố và mẹ đang trú tại Tổ dân phố 14, Thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Trần Xuân Thư, nghề nghiệp: lao động tự do; trú tại tổ 14 thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; con: Phan Thị Minh Khôi, sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:Ngày 22/02/2006, bị Công an huyện Cẩm Xuyên xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản’’, theo Quyết định số 04/QĐXPHC, ngày 22/02/2006; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên tạm giữ từ ngày 18/7/2019, đến ngày 21/7/2019 khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú’’ cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

4. Lê Văn S; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 12 tháng 5 năm 1962, tại xã Cẩm Q, huyện Cẩm X, tỉnh Hà T; Nơi đăng ký HKTT: Thôn 10, xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 7/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Lê Văn Tường; Sinh năm 1934. (Đã mất); Con bà: Phạm Thị Nhỏ; Sinh năm 1940. (Đã mất); Anh chị em ruột: Có 06 người, bị cáo là con thứ hai. Vợ: Nguyễn Thị Hòa; Sinh năm 1968; Nghề nghiệp:Làm ruộng; Hiện trú tại Xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên tạm giữ kể từ ngày 18/7/2019 đến ngày 21/7/2019 khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Văn C, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1962, tại Xã Hoàng Tiến, huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Nơi đăng ký HKTT: Thôn Nam Hữu Quyền, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh (Nay sát nhập thành thị trấn Cẩm Xuyên, huyện cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh); Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 3/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông:

Nguyễn Văn Tấn; Sinh năm 1939 (đã mất); Con bà: Nguyễn Thị Tiểu; Sinh năm 1931; Hiện hết tuổi lao động và trú tại Xã Hoàng Tiến, huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Chu Thị Hà; Sinh năm 1968; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Hiện trú tại Thôn Nam Hữu Quyền, Xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Con: Có 04 đứa, đứa lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 31/10/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xử phạtbằng tiền 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng), về tội “Đánh bạc’’ tại Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2015/HSST. Đã chấp hành xong Bản án, đương nhiên được xóa án tích; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/7/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

6. Bùi Hữu L; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 30 tháng 9 năm 1980. Tại xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi đăng ký HKTT: Thôn Nam Hữu Quyền, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Bùi Hữu Thi; Sinh năm: 1940; Con bà: Nguyễn Thị Hoạch; Sinh năm: 1944; Hiện hết tuổi lao động và trú tại Thôn Nam Mỹ Lộc, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Anh chị em ruột: có 07 người, bị cáo là con thứ 6; Vợ: Nguyễn Thị Thu Hà; Sinh năm 1983; Nghề nghiệp: lao động tụ do; Trú tại: Thôn Nam Hữu Quyền, Thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh(Nay sát nhập thành thị trấn Cẩm Xuyên, huyện cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh);; Con: Có 02 đứa, đứa lớn sinh năm 2009, đứa nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên tạm giữ kể từ ngày 18/7/2019 đến ngày 21/7/2019 khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Hoàng Văn H, sinh năm 1966 trú tại Thôn Bắc Hữu Quyền, xã cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, nghề nghiệp: hưu trí, vắng mặt.

2. Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1983, trú tại Thôn Nam Hữu Quyền, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, nghề nghiệp: lao động tự do, vắng mặt.

3. Trần Hà Th, sinh năm 1957, trú tại Thôn Nam Hữu Quyền, xã cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, nghề nghiệp: làm ruộng, vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Trần Hữu H, sinh năm 1959, trú tại Thôn Nam Hữu Quyền, xã cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt.

- Dương Huy Th, sinh năm 1961, trú tại Thôn Nam Hữu Quyền, xã cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt.

- Trần Huy H, sinh năm 1992, trú tại Thôn Nam Hữu Quyền, xã cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Chiều ngày 18/7/2019, Phan Văn H, Hoàng Hữu B, Nguyễn Văn C, Lê Văn S và Bùi Hữu L cùng Trần Hữu H, sinh năm 1959, Dương Huy Th, sinh năm 1961, Trần Huy Ho, sinh năm 1992 đều ở Thôn Nam Hữu Qu, xã Cẩm H, huyện Cẩm X đến quán cà phê “38’’ do ông Hoàng Văn H, sinh năm 1966, ở thôn Nam Hữu Q, xã Cẩm H, huyện Cẩm X, tỉnh Hà Tĩnh (là bố đẻ của Hoàng Văn H làm chủ quán, nhưng đến cuối năm 2018, ông H đã bàn giao quán lại cho Hoàng Văn H quản lý và sử dụng) để uống cà phê. Trong lúc đang ngồi uống cà phê, thì Hoàng Văn H đi lại nói với mọi người “Ta làm tý ba cây hè” (Ý rủ mọi người đánh bài ăn tiền bằng hình thức đánh ba cây) thì Phan Văn H, Hoàng Hữu B, Nguyễn Văn C, Lê Văn S và Bùi Hữu L đồng ý nhưng tất cả đều nói lại với Hoàng Văn H không mang theo tiền và mang theo tiền ít, nên Hoàng Văn H nói H sẽ cho vay tiền để đánh bạc thì tất cả đồng ý. Tiếp đó, Hoàng Văn H hướng dẫn các đối tượng đi xuống căn phòng ngủ dưới tầng hầm phía sau quán để đánh bạc, còn Hoàng Văn H đi về nhà lấy số tiền 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng) của mình để ở nhà cùng với số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) có sẵn trong túi quần đến cho các đối tượng vay sử dụng đánh bạc để thu tiền hồ. Khi các đối tượng vào trong phòng, thấy giữa phòng đã trải sẵn một chiếc chiếu nhựa nhưng chưa có bài, nên ngồi chờ. Sau khi Hoàng Văn H đưa tiền đến để cho các đối tượng vay sử dụng vào việc đánh bạc, thì có người nói với Hoàng Văn H chưa có bài, nên Hđi lên quầy lễ tân của quán lấy 03 (Ba) bộ bài tú lơ khơ có sẵn từ trước đưa xuống cho các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc. Khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, 05 đối tượng gồm: Phan Văn H, Hoàng Hữu B, Nguyễn Văn Cư, Lê Văn S và Bùi Hữu L ngồi xuống chiếu thành vòng tròn rồi cùng nhau đánh bạc dưới hình thức đánh “Ba cây”, còn Trần Hữu H, Dương Huy Th và Trần Huy H đứng xem 05 đối tượng đánh bạc. Cách thức đánh cụ thể như sau: Dùng bộ bài tú lơ khơ 52 quân, loại bỏ các quân bài 10, J, Q, K, còn lại 36 quân bài từ A (Át) đến 9 dùng để đánh bạc. Trong mỗi ván bài có một người chia bài gọi là “Nhà cái”. Trước khi Nhà cái chia bài, mỗi người đặt xuống chiếu tối thiểu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) và tối đa không quá 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) gọi là tiền “Đặt cửa”. Mỗi người tham gia đánh được nhà cái chia cho 3 quân bài, sau đó người tham gia đánh tính điểm để so điểm với nhà cái. Nếu người đánh thấp điểm hơn nhà cái thì mất số tiền đặt cửa cho nhà cái; trường hợp người tham gia đánh có “Sáp” (ba quân bài bằng nhau) thì nhà cái phải trả cho người đánh gấp ba lần số tiền đặt cửa và ngược lại; trường hợp người tham gia đánh có 10 điểm tròn thì nhà cái phải trả cho người đánh gấp đôi số tiền họ đã đặt cửa, đồng thời nhà cái phải chuyển cái cho người có 10 điểm tròn để người này cầm cái; nếu nhà cái có 10 điểm tròn thì những người tham gia đánh phải trả gấp đôi số tiền đặt cửa cho nhà cái; trường hợp nhà cái trùng điểm với người đánh thì phân định thắng thua bằng “Chất” theo thứ tự “rô, cơ, chuồn, bích”. Hoàng Văn H không tham gia đánh bạc mà sử dụng số tiền 36.700.000 đồng (Ba mươi sáu triệu, bảy trăm nghìn đồng) cho Phan Văn H, Hoàng Hữu B, Nguyễn Văn C, Bùi Hữu L và Lê Văn S vay để sử dụng đánh bạc mà không tính tiền lãi, nhưng quá trình đánh bạc, trong mỗi ván đánh thì Hoàng Văn H bốc 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) “Tiền Hồ”, tổng cộng Hoàng Văn H đã bốc được 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) “Tiền Hồ”. Đến khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 18/7/2019, khi Phan Văn H, Hoàng Hữu B, Nguyễn Văn C, Lê Văn S và Bùi Hữu L đang đánh bạc, còn Hoàng Văn H đang ngồi xem để thu tiền hồ và Trần Hữu H, Dương Huy Th và Trần Huy H đang đứng xem thì bị Tổ tuần tra Công an huyện Cẩm X phát hiện vào bắt quả tang nên Phan Văn H, Hoàng Hữu B, Nguyễn Văn C, Lê Văn S, Bùi Hữu L và Hoàng Văn H cùng nhau thu gom tiền và bài vứt qua lổ thông gió của phòng ngủ. Sau khi giải thích và yêu cầu thì các bị cáo đã thu gom tiền và bài lại để trên chiếu và đều khai nhận tiền và bài vứt qua lổ thông gió thu gom lại là trước đó đã sử dụng vào việc đánh bạc. Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm X đã lập biên bản quả tang thu giữ ba bộ bài Tú lơ khơ gồm 162 quân bài và 44.400.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu đồng) tiền mặt. Quá trình điều tra xác định số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc, gá bạc, cụ thể như sau: * Về hành vi “Gá bạc’’: Hoàng Văn H sử dụng số tiền mặt là 36.700.000 đồng (Ba mươi sáu triệu, bảy trăm nghìn đồng) với mục đích cho những người đánh bạc vay, để thu tiền hồ, gồm:

+ Cho Phan Văn H vay hai lần, mỗi lần 5.000.000 đồng, tổng cộng 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), Phan Văn H chưa trả cho Hoàng Văn H.

+ Cho Hoàng Hữu B vay hai lần, mỗi lần 5.000.000 đồng, tổng cộng 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), Bảo chưa trả cho Hoàng Văn H.

+ Cho Nguyễn Văn C vay 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), C chưa trả cho Hoàng Văn H.

+ Cho Bùi Hữu L vay 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), L chưa trả cho Hoàng Văn H.

+ Cho Lê Văn S vay 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), S chưa trả cho Hoàng Văn H.

* Về hành vi “ Đánh bạc’’:

1. Hoàng Hữu B: Khi tham gia đánh bạc mang theo số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu, năm trăm nghìn đồng), trong quá trình đánh bạc B vay của Hoàng Văn H 02 lần với tổng số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Như vậy, tổng số tiền Hoàng Hữu Bảo sử dụng để đánh bạc là 12.500.000 đồng (Mười hai triệu, năm trăm nghìn đồng).

2.Phan Văn H: Khi tham gia đánh bạc mang theo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng); trong quá trình đánh bạc có vay của Hoàng Văn H 02 lần với tổng số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Như vậy, tổng số tiền Phan Văn H sử dụng để đánh bạc là 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng).

3.Lê Văn S: Khi tham gia đánh bạc mang theo số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), trong quá trình đánh bạc Sửu vay của Hoàng Văn H 01 lần với tổng số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Như vậy, tổng số tiền Lê Văn S sử dụng để đánh bạc là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).

4.Bùi Hữu L: Khi tham gia đánh bạc L mang theo số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng); trong quá trình đánh bạc L đã vay của Hoàng Văn H 01 lần với số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Như vậy, tổng số tiền Bùi Hữu L sử dụng để đánh bạc là 5.200.000 đồng (Năm triệu hai trăm nghìn đồng).

5.Nguyễn Văn C: Khi tham gia đánh bạc không mang theo tiền, trong quá trình đánh bạc đã vay của Hoàng Văn H 01 lần với tổng số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để đánh bạc. Như vậy, tổng số tiền Nguyễn Văn C sử dụng đánh bạc là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Tổng cộng tang số đánh bạc của 05 bị cáo nêu trên là 42.700.000 đồng (Bốn mươi hai triệu, bảy trăm nghìn đồng).

* Về thu giữ, tạm giữ tài liệu đồ vật; xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên đã thu giữ, xử lý các vật chứng bao gồm:

+ Trả lại cho các bị cáo các tài sản mà trong quá trình điều tra đã xác định không liên quan đến hành vi phạm tội cụ thể như sau:

- 01 (Một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS, màu vàng đồng, số IMEI: 357217092846459, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu của Hoàng Văn H.

- 01 (Một) xe ô tô nhãn hiệu Mercedes màu trắng, biển kiểm soát 38A- 170.82, không kiểm tra số khung, số máy; Một điện thoại di động hiệu Iphon 7Plus, màu đen, số IMEI: 359217072041873, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; Một điện thoại di động hiệu Iphon XS, màu vàng gold, số IMEI: 357329094368166, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu của Phan Văn H.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphon màu hồng, số IMEI:

358570070410923, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu của Hoàng Hữu B.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphon 6Plus, số IMEI:

356987067357671, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu của Nguyễn Văn C - 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; Một ví da màu vàng, bên trong ví có số tiền 2.235.000 đồng (Hai triệu hai trăm ba mươi lăm nghìn đồng), thu của Bùi Hữu L. Quá trình điều tra xác định số tiền 2.235.000 đồng là của chị Nguyễn Thị Thu H (Vợ L) đưa cho L đi mua đồ dùng sinh hoạt trong gia đình, L cất trong ví không lấy ra sử dụng vào việc đánh bạc.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Sam Sung J8 màu vàng đồng, số IMEI:

359051096483644, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong; Một ví da màu đen, bên trong ví có số tiền 650.000 đồng (Sáu trăm năm mươi nghìn đồng) thu của Lê Văn S. Quá trình điều tra xác định số tiền 650.000 đồng, S cất dấu trong ví không sử dụng vào việc đánh bạc.

+ Vật chứng thu giữ chưa xử lý:

- Số tiền 44.400.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu đồng) thu của các bị cáo sử dụng vào việc cho vay để đánh bạc và đánh bạc.

- 01 (Một) chiếc chiếu nhựa có in nhiều hoa văn màu sắc mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.

- 03 (Ba) bộ bài tú lơ khơ gồm 156 quân bài và 06 quân phăng.

Với hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số: 02/Ctr – KSĐT ngày 20/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên đã truy tố bị cáo Hoàng Văn H về tội “Gá bạc” quy định tại các Điểm c Khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015. Các bị cáo Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Bùi Hữu L, Nguyễn Văn C về tội “Đánh bạc’’ quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên sau khi phân tích, đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo bị cáo Hoàng Văn H về tội “Gá bạc”, Các bị cáo Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Bùi Hữu L, Nguyễn Văn C về tội “Đánh bạc”.

Đề nghị áp dụng và xử phạt:

+ Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 322;Điểm s, Khoản 1, 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Hoàng Văn H từ 12 đến 15 tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án. (Bị cáo được trừ 03 ngày tạm giữ vào thời gian thi hành án, từ ngày 18/7/2019 đến ngày 21/7/2019) + Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; Điểm i, s Khoản 1, 2, Điều 51, Điều 65, Điều 17, Điều 58, Bộ luật Hình sự xử phạt:

- Phan Văn H từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 đến 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. - Hoàng Hữu B từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 đến 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; Điểm i, s, Khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65Bộ luật Hình sự xử phạt:

- Lê Văn S từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thứ thách 18 đến 24 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; Điểm s, Khoản 1, 2, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65Bộ luật Hình sự xử phạt: Nguyễn Văn C từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thứ thách 18 đến 24 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; Điểm b, Khoản 1, Điều 32, Khoản 1, Điều 35, Điểm i, s, Khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Bộ luật Hình sự xử phạt bằng tiền đối với Bùi Hữu L từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

+ Về hình phạt bổ sung: Áp dụng Khoản 3, Điều 321 và Khoản 3, Điều 322, Khoản 2, Điều 35 BLHS áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với: Hoàng Văn H từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng; Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn Văn C mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng. Riêng Hoàng Hữu B gia đình thuộc hộ cận nghèo và đã có đơn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Hữu B.

Đồng thời áp dụng pháp luật để xử lý vật chứng.

Các bị cáo Hoàng Văn H, Hoàng Hữu B, Lê Văn S, Bùi Hữu L, Nguyễn Văn C không có ý kiến gì tranh luận với Viện kiểm sát mà xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và xin cho các bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo trình tự thủ tục luật định, đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra Hoàng Văn H, Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn Văn C, Bùi Hữu L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Vào hồi 15 giờ 30 phút, ngày 18/7/2019, tại quán café “38’’, ở thôn Nam Hữu Quyền, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh do Hoàng Văn Hưng quản lý và sử dụng. Công an huyện Cẩm Xuyên bắt quả tang Phan Văn H, Hoàng Hữu B, Nguyễn Văn C, Lê Văn S và Bùi Hữu L đang thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền, dưới hình thức “Ba cây”, với mức đánh mỗi người trong mỗi ván từ 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) đến 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), còn Hoàng Văn H không tham gia đánh bạc mà sử dụng số tiền 36.700.000 đồng (Ba mươi sáu triệu, bảy trăm nghìn đồng) cho các bị cáo khác vay để sử dụng đánh bạc thu tiền hồ. Tang vật thu giữ: Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 44.400.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu, bốn trăm nghìn đồng). Trong đó của Hoàng Văn H 36.700.000 (Ba mươi sáu triệu, bảy trăm nghìn đồng) sử dụng cho các bị cáo vay để đánh bạc và 7.700.000 đồng (Bảy triệu, bảy trăm nghìn đồng) các bị cáo mang theo để sử dụng vào việc đánh bạc; 01 chiếc chiếu nhựa và 162 quân bài tú lơ khơ. Quá trình điều tra xác định: Hoàng Văn H sử dụng số tiền 36.700.000 đồng để cho 05 bị cáo mượn địa điểm của gia đình để đánh bạc, nhằm mục đích cho các bị cáo vay tiền để đánh thu tiền hồ; tổng cộng Hoàng Văn H đã cho 05 bị cáo vay 07 lượt với tổng số 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng), thu lợi bất chính số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Tổng số tiền 05 bị cáo đã sử dụng vào việc đánh bạc là 42.700.000 đồng (Bốn mươi hai triệu, bảy trăm nghìn đồng). Trong đó Hoàng Hữu B sử dụng 12.500.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm nghìn đồng); Phan Văn H sử dụng 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng); Lê Văn S sử dụng 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng); Bùi Hữu L sử dụng 5.200.000 đồng (Năm triệu hai trăm nghìn đồng) và Nguyễn Văn C sử dụng 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Trong vụ án này, Hoàng Văn H là người khởi xướng vừa là người cho những người tham gia đánh bạc mượn địa điểm, công cụ dụng để đánh bạc và cho những người tham gia đánh bạc vay tiền để thu tiền hồ, giữ vai trò chính trong vụ án; Phan Văn H, Hoàng Hữu B, Lê Văn S, Nguyễn Văn C và Bùi Hữu L là những người trực tiếp thực hiện hành vi đánh bạc.

[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đánh bạc là một tệ nạn đã xâm phạm trật tự trị an tại địa phương và hoạt động bình thường của xã hội. Đánh bạc là nguyên nhân làm phát sinh của nhiều tội phạm và vi phạm pháp luật, đồng thời làm ảnh hưởng đến kinh tế và hạnh phúc của nhiều gia đình. Xét hành vi đánh bạc của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu về tình hình trật tự xã hội và dư luận bất bình trong cán bộ và quần chúng nhân dân. Bản thân các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trong vụ án này các bị cáo Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn văn C, Bùi Hữu L đồng phạm với vai trò đồng thực hành về việc đánh bạc. Số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 42.700.000 đồng (Bốn mươi hai triệu, bảy trăm nghìn đồng);

Hoàng Văn H sử dụng số tiền 36.700.000 đồng để cho 05 bị cáo mượn địa điểm của gia đình để đánh bạc, nhằm mục đích cho các bị cáo vay tiền để đánh thu tiền hồ; tổng cộng Hoàng Văn H đã cho 05 bị cáo vay 07 lượt với tổng số tiền 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng), thu lợi bất chính số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Tổng số tiền 05 bị cáo đã sử dụng vào việc đánh bạc là 42.700.000 đồng (Bốn mươi hai triệu, bảy trăm nghìn đồng). Trong đó Hoàng Hữu B sử dụng 12.500.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm nghìn đồng); Phan Văn Hưng sử dụng 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng); Lê Văn S sử dụng 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng); Bùi Hữu L sử dụng 5.200.000 đồng (Năm triệu hai trăm nghìn đồng) và Nguyễn Văn C sử dụng 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). [4] Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên truy tố Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Bùi Hữu L, Nguyễn Văn C về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo Hoàng Văn H về tội “gá bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 322 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[5] Xem xét tính chât, hành vi phạm tội, vai trò của các bị cáo trong vụ án và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

+ Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

+ Tình tiết giảm nhẹ:

- Bị cáo Hoàng Văn H được hưởng tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo Hưng có thời gian tham gia trong Công an nhân dân từ tháng 02/2012 đến tháng 02/2015, tại phòng PC65, Công an tỉnh Đồng Nai và trong các năm 2012, 2013 được Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai tặng danh hiệu Chiến sĩ tiên tiến, theo quy định tại Điểm s, Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Bị cáo Hoàng Hữu B được hưởng tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; gia đình thuộc diện hộ cận nghèo, theo quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Bị cáo Phan Văn H được hưởng tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có mẹ đẻ được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba, Thủ Tướng Chính phủ tặng giấy khen đã có thành tích trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc và có thời gian tham gia trong Công an nhân dân từ tháng 9/2014 đến tháng 9/2017, tại Công an tỉnh Hà Tĩnh, theo quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Bị cáo Nguyễn Văn C được hưởng tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội thành khẩn khai báo; có mẹ đẻ được Chủ Tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng ba, theo quy định tại Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Các bị cáo Bùi Hữu L và Lê Văn S được hưởng tình tiết giảm nhẹ:

Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, theo quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Đối với Hoàng Văn H đã sử dụng địa điểm thuộc quyền quản lý của bố, mẹ để cho 05 bị cáo khác mượn đánh bạc, đồng thời Hoàng Văn H đứng ra cho các con bạc vay tiền để thu tiền hồ bất chính nên Hoàng Văn H phạm tội “Gá bạc’’. Quá trình điều tra xác định Hoàng Văn H không đứng ra tổ chức đánh bạc nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm Hoàng Văn H về tội “Tổ chức đánh bạc’’.

- Trong vụ án có: Ông Hoàng Văn H là chủ quán cafe “38” nơi các đối tượng sử dụng để phạm tội đánh bạc và gá bạc. Quá trình điều tra xác định tại thời điểm các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, ông H và gia đình giao cho Hoàng Văn H quản lý, việc các bị cáo phạm tội ông H không biết nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

+ Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đối với bị cáo Hoàng Văn H là người cung cấp địa điểm và tiền cũng như rủ các bị cáo khác tham gia đánh bạc, vì vậy cần phải xử lý nghiêm. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, bị cáo có thời gian tham gia trong Công an nhân dân từ tháng 02/2012 đến tháng 02/2015, tại phòng PC65, Công an tỉnh Đồng Nai và trong các năm 2012, 2013 được Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai tặng danh hiệu Chiến sĩ tiên tiến nên cần xem xét giảm nhẹ phần nào cho bị cáo khi lượng hình để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Nhưng dù có chiếu cố đến đâu thì việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là điều cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và gia đình, mặt khác cũng để răn đe phòng ngừa chung.

Đối với các bị cáo Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn Văn C. Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, cũng như sử dụng số tiền đánh bạc ít, vì vậy đủ căn cứ và điều kiện áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xét thấy không cần thiết phải cách ly Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn Văn C ra khỏi đời sống xã hội mà cần giao các bị cáo Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn Văn C cho chính quyền địa phương quản lý giáo dục cũng đủ nghiêm, đối với bị cáo Bùi Hữu L cần áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ nghiêm, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho các bị cáo ăn năn hối cải trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

+ Về hình phạt bổ sung: Cần áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với: Hoàng Văn Hưng 20.000.000 đồng; Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn Văn C mỗi bị cáo 10.000.000 đồng. Riêng Hoàng Hữu B gia đình thuộc hộ cận nghèo và đã có đơn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Hữu B.

[6]. Về vật chứng: Áp dụng Điểm a, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự, Khoản 1, Điểm a, c, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự - Tịch thu sung cỗng quỹ nhà nước số tiền 44.400.000 đồngthu của các bị cáo sử dụng vào việc cho vay để đánh bạc và đánh bạc.

- Tịch thu, tiêu hủy: Một chiếc chiếu nhựa có in nhiều hoa văn màu sắc;

Ba bộ bài tú lơ khơ gồm 156 quân bài và 06 quân phăng mà các bị can sử dụng vào việc đánh bạc.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Gá bạc”; Các bị cáo Hoàng Hữu Bảo, Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn Văn C, Bùi Hữu L phạm tội "Đánh bạc".

2. Về điều luật và hình phạt:

+ Áp dụng Điểm c, Khoản 1, 3 Điều 322;Điểm s, Khoản 1, 2, Điều 51, khoản 2 điều 35 Bộ luật Hình sự xử phạt Hoàng Văn H 12 (Mười hai) tháng tù giam, bị cáo H được trừ 03 ngày tạm giữ vào thời gian đi thi hành án (từ ngày 18/7/2019 đến ngày 21/7/2019). Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Phạt bổ sung Hoàng Văn H 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) + Áp dụng: Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1, 2, Điều 51, Điều 65, Điều 17, Điều 58, khoản 2 điều 35 Bộ luật Hình sự xử phạt: - Phan Văn H 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 12/3/2020. Giao bị cáo Phan Văn H cho UBND thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh quản lý bị cáo Phan Văn H trong thời gian thử thách.

Phạt bổ sung Phan Văn H 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) - Hoàng Hữu B 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 12/3/2020. Giao bị cáo Hoàng Hữu B cho UBND thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh quản lý bị cáo Hoàng Hữu B trong thời gian thử thách. (Trước đây bị cáo có hộ khẩu tại xã Cẩm Huy, huyện cẩm Xuyên, nhưng hiện nay xã Cẩm Huy đã nhập về thị trấn Cẩm Xuyên).

+ Áp dụng: Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm i, s, Khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65, Khoản 2, Điều 35Bộ luật Hình sự xử phạt:

- Lê Văn S 10 (Mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 12/3/2020. Giao bị cáo Lê Văn S cho UBND xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh quản lý bị cáo Lê Văn S trong thời gian thử thách.

Phạt bổ sung Lê Văn S 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) + Áp dụng: Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm s, Khoản 1, 2, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65, Khoản 2, Điều 35Bộ luật Hình sự xử phạt: Nguyễn Văn C 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thứ thách 18 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 12/3/2020. Giao bị cáo Nguyễn Văn C cho UBND thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh quản lý bị cáo Nguyễn Văn C trong thời gian thử thách. (Trước đây bị cáo có hộ khẩu tại xã Cẩm Huy, huyện cẩm Xuyên, nhưng hiện nay xã Cẩm Huy đã nhập về thị trấn Cẩm Xuyên).

Phạt bổ sung Nguyễn Văn C 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

+ Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; Điểm b, Khoản 1, Điều 32, Khoản 1, Điều 35, Điểm i, s, Khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Bộ luật Hình sự xử phạt bằng tiền (là hình phạt chính) đối với Bùi Hữu L 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.

Áp dụng khoản 1 điều 61 Luật thi Hành án hình sự: Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 62 của luật này và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

7. Về vật chứng: Áp dụng Điểm a, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự, Khoản 1, Điểm a, c, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: - Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 44.400.000 đồngthu của các bị cáo sử dụng vào việc cho vay để đánh bạc và đánh bạc.

- Tịch thu, tiêu hủy: Một chiếc chiếu nhựa có in nhiều hoa văn màu sắc; Ba bộ bài tú lơ khơ gồm 156 quân bài và 06 quân phăng mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.

Tình trạng vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/12/2019 giữa Công an huyện Cẩm Xuyên và Chi cục thi hành án dân sự huyện cẩm Xuyên.

8.Về án phí: Áp dụng Điều 135, Khoản 2, Điều 136 BLTTHS; Điểm a, Khoản 1, Điều 3; khoản 1 Điều 20, Điểm a, khoản 1 Điều 23; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của tòa án, buộc các bị cáo Hoàng Văn H, Phan Văn H, Lê Văn S, Nguyễn Văn C và Bùi Hữu L mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST. Riêng bị cáo Hoàng Hữu B được miển tiền án phí hình sự sơ thẩm do thuộc diện hộ cận nghèo và đã có đơn xin miển.

9. Quyền kháng cáo bản án: Các bị cáo Hoàng Văn H, Hoàng Hữu B, Phan Văn H, Lê Văn S, Bùi Văn L, Nguyễn Văn C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (vắng mặt) có quyền kháng cáo bản án các nội dung liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

445
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/HSST ngày 12/03/2020 về tội gá bạc và đánh bạc

Số hiệu:11/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về