Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 11/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 09 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 47/2020/TLST- HNGĐ ngày 03-7-2020 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/9/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:Anh Trần Xuân L, sinh năm: 1987; Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Thôn X, xã X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh,

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H; sinh năm: 1987; Nơi ĐKHKTT: Thôn X, xã X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh chổ ở hiện nay: Thôn X, xã X, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Trần Xuân L trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau vào ngày 02/06/2015 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã được hai bên gia đình và UBND xã X, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau được 03 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do quá trình anh L làm ăn ở nước ngoài, vợ nghi ngờ anh có người phụ nữ khác, nên đã bỏ về bên nhà ngoại từ năm 2018 cho đến nay mặc dù anh L rất nhiều lần khuyên nhủ chị H trở về chung sống nhưng không có kết quả. Hiện anh L xác định không còn tình cảm với chị H nữa, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng nên yêu cầu Tòa án cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị H. Về con chung, quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là Trần Thiện Ph, sinh ngày 04-6-2013, từ khi vợ chồng ly thân con do chị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Để không làm xáo trộn cuộc sống của con, nay vợ chồng ly hôn anh L đồng ý giao con Trần Thiện Ph cho chị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị H trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến xét xử hôm nay, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, nhưng có bản tự khai và đơn xin giải quyết vắng mặt nên Tòa án không tổ chức hòa giải giữa vợ chồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến phiên tòa hôm nay Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71 và Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tung nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không thể đạt được vì vậy căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho anh Trần Xuân L được ly hôn chị Nguyễn Thị H. Về con chung: Đề nghị căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao con Trần Thiện Ph sinh ngày 04- 6-2013 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng; Chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng tiền nuôi con cùng chị nên miễn xét. Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị HĐXX không xem xét. Về án phí: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc anh Trần Xuân L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nội dung vụ án, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, chị Nguyễn Thị H có hộ khẩu thường trú tại xã X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Chị Nguyễn Thị H được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án chị H đã có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để giải quyết theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Anh Trần Xuân L và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Anh L cho rằng nguyên nhân mâu do quá trình anh đi làm ăn ở nước ngoài, chị H nghi ngờ anh có quan hệ với người phụ nữ khác nên đã bỏ về bên ngoại ở từ năm 2018 cho đến nay và không đồng ý quay về chung sống cùng nhau. Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án chị H, không có mặt theo giấy triệu tập cũng như các lần hòa giải của Tòa án và đã có đơn xin giải quyết vắng mặt. Hội đồng xét xử thấy rằng anh L và chị H đã sống ly thân từ năm 2018 mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không thể đạt được vì vậy căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh Trần Xuân L được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 chung là Trần Thiện Ph, sinh ngày 04-6- 2013từ khi vợ chồng sống ly thân con do chị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng nay vợ chồng ly hôn, xét nguyện vọng của chị H cũng như nguyện vọng của cháu Trần Thiện Ph,anh L đồng ý giao con Trần Thiện Ph cho chị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng tiền nuôi con. Vì vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao con Trần Thiện Ph cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng đến khi đủ tròn 18 tuổi, ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầuanh L cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Anh Trần Xuân Llà nguyên đơn trong vụ án hôn nhân nên phải nộp án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và theo điểm a Khoản 5, Điều 27 của Nghị quyết số số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, khoản 2 Điều 81, Điều 82,Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử choanh Trần Xuân L được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

2. Về con chung: Giao con Trần Thiện Ph,sinh ngày 04-6-2013cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng đến khi đủ tròn 18 tuổi; Anh Trần Xuân L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị H.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi dưỡng con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Anh Trần Xuân Lphải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0006815 ngày 03 tháng 7 năm 2020 của Chi cục thi hành án thị xã Kỳ Anh, tiền án phí anh L đã nộp đủ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn anh Trần Xuân L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về