Bản án 11/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 11/2020/DS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2020/TLST-DS ngày 25 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp “Hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-DS, ngày 03/8/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP B; địa chỉ: Tòa nhà C, 109 - T, quận H, thành phố Hà Nội;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Doãn S - Tổng Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn C - Giám đốc Ngân hàng TMCP B chi nhánh Quảng Bình

Người được ủy quyền lại: Bà Trương Nữ Linh C - Chuyên viên hỗ trợ hoạt động Phòng giao dịch B Ngân hàng TMCP B chi nhánh Quảng Bình (văn bản ủy quyền số 818/2019/UQ-LiênVietPostBank ngày 16/9/2019); địa chỉ: Số 375 - đường Q, phường B, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Khúc Thị Đ; địa chỉ: thôn P 1, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Hà Nhật L - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 28/4/2020, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Vào ngày 02/10/2017, giữa Phòng giao dịch B Ngân hàng TMCP B Chi nhánh Quảng Bình đã ký kết với bà Khúc Thị Đ Hợp đồng tín dụng số HDTD4532017199. Qua đó, Ngân hàng đã cho bà Đ vay với số tiền là 50.000.000 đồng, lãi suất cho vay trong hạn là 8%/năm tính trên tổng dư nợ gốc ban đầu, lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất nợ lãi chậm trả do hai bên thỏa thuận bằng 10%/năm, thời hạn vay 36 tháng, kỳ trả nợ vào ngày 10 hàng tháng, bắt đầu trả nợ từ tháng 11/2017, được chia làm 36 kỳ trả nợ, 35 kỳ đầu mỗi kỳ thanh toán số tiền gốc là 1.390.000, kỳ cuối cùng thanh toán số tiền gốc là 1.350.000 đồng vào ngày 02/10/2020, mục đích vay là để mua sắm nội thất gia đình.

Quá trình thực hiện Hợp đồng bà Đ đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền gốc là 18.070.000 đồng và tiền lãi hàng tháng. Từ ngày 20/12/2018 đến nay, bà Đ đã không trả được nợ theo cam kết nên khoản vay đã bị chuyển sang nợ quá hạn. Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, tạo điều kiện để bà Khúc Thị Đ thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng vẫn không có kết quả, bà Khúc Thị Đ vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, vi phạm cam kết.

Để thu hồi vốn, đại diện cho Ngân hàng TMCP B đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà Khúc Thị Đ phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/9/2020) là 39.585.102 đồng, trong đó tiền nợ gốc là 31.930.000 đồng, tiền nợ lãi là 7.655.102 đồng và phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong tiền nợ.

Tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn bà Khúc Thị Đ trình bày: Ngày 02/10/2017, giữa bà và Phòng giao dịch B Ngân hàng TMCP B Chi nhánh Quảng Bình đã ký 01 Hợp đồng tín dụng số HDTD4532017199, lãi suất cho vay trong hạn là 8%/năm tính trên tổng dư nợ gốc ban đầu, lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất nợ lãi chậm trả do hai bên thỏa thuận bằng 10%/năm, thời hạn vay 36 tháng, kỳ trả nợ vào ngày 10 hàng tháng, bắt đầu trả nợ từ tháng 11/2017, được chia làm 36 kỳ trả nợ, 35 kỳ đầu mỗi kỳ thanh toán số tiền gốc là 1.390.000, kỳ cuối cùng thanh toán số tiền gốc là 1.350.000 đồng vào ngày 02/10/2020, mục đích vay là để mua sắm nội thất gia đình. Sau khi ký kết Hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân với tổng số tiền vay là 50.000.000 đồng.

Sau khi vay vốn và thực hiện Hợp đồng bà đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền gốc là 18.070.000 đồng và tiền lãi hàng tháng. Nay Ngân hàng TMCP B đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/9/2020) là 39.585.102 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 31.930.000 đồng, tiền nợ lãi là 7.655.102 đồng và phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong tiền nợ thì bà cũng đồng ý khoản nợ vay đó nhưng gia đình bà hiện đang gặp khó khăn nên không có khả năng trả nợ.

Tại bản luận cứ bảo vệ gửi cho Tòa án, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn thống nhất như ý kiến của bị đơn về việc vay vốn, khoản nợ vay và khả năng trả nợ. Đề nghị phía Ngân hàng xem xét biện pháp hỗ trợ khách hàng giảm lãi, kéo dài thời hạn trả nợ, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bà Đ vì bà Đ thuộc diện hộ cận nghèo * Đại diện VKSND huyện Quảng Trạch phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các bên đương sự đã tuân theo pháp luật tố tụng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Hà Nhật L.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 463, 466 của Bộ luật Dân sự; các Điều 91, 95 của Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 12, 15 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP B, buộc bị đơn bà Khúc Thị Đ phải trả nợ cho Ngân hàng TMCP B tổng số tiền là 39.585.102 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 31.930.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/9/2020) là 7.655.102 đồng và phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh sau ngày 29/9/2020 cho đến khi thanh toán xong tiền nợ; miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho bà Khúc Thị Đ theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Gia Ngân hàng TMCP B với bà Khúc Thị Đ đã ký kết Hợp đồng tín dụng cho vay với mục đích tiêu dùng cá nhân và gia đình, do bà Khúc Thị Đ vi phạm nghĩa vụ trong Hợp đồng nên Ngân hàng khởi kiện tại Tòa án đòi số tiền nợ gốc và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng ký kết. Vì vậy, xác định đây là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Hà Nhật L vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông Hà Nhật L.

[2] Về nội dung tranh chấp, yêu cầu của đương sự: Theo yêu cầu khởi ki ện, lời t rình bày củ a các đ ương s ự và tài li ệu , ch ứng cứ t rong hồ sơ vụ án , xác định: vào ngày 02/10/2017, bà Khúc Thị Đ đã ký kết với Phòng giao dịch B Ngân hàng TMCP B Chi nhánh Quảng Bình Hợp đồng tín dụng số HDTD4532017199. Ngân hàng đã cho bà Đ vay với số tiền là 50.000.000 đồng, lãi suất cho vay trong hạn là 8%/năm tính trên tổng dư nợ gốc ban đầu, lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất nợ lãi chậm trả do hai bên thỏa thuận bằng 10%/năm, thời hạn vay 36 tháng, kỳ trả nợ vào ngày 10 hàng tháng, bắt đầu trả nợ từ tháng 11/2017, được chia làm 36 kỳ trả nợ, 35 kỳ đầu mỗi kỳ thanh toán số tiền gốc là 1.390.000, kỳ cuối cùng thanh toán số tiền gốc là 1.350.000 đồng vào ngày 02/10/2020, mục đích vay là để mua sắm nội thất gia đình.

Như vậy, Hợp đồng tín dụng ký kết giữa hai bên có nội dung và hình thức phù hợp với quy định pháp luật, là Hợp đồng hợp pháp nên có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay bà Khúc Thị Đ chỉ mới thanh toán được một khoản tiền gốc và lãi phát sinh, đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi hàng tháng, vi phạm thời hạn thanh toán.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải, tạo điều kiện để các bên thống nhất thỏa thuận phương án giải quyết vụ án, phương thức thanh toán khoản tiền nợ nhưng không có kết quả. Bị đơn bà Khúc Thị Đ thừa nhận khoản tiền nợ vay nhưng không có phương thức thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/9/2020) bà Khúc Thị Đ còn nợ Ngân hàng TMCP B số tiền là 39.585.102 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 31.930.000 đồng, tiền nợ lãi là 7.655.102 đồng.

Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP B yêu cầu bị đơn bà Khúc Thị Đ phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ khoản tiền nợ cho Ngân hàng là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật. Căn cứ vào các Điều 463, 466 của Bộ luật Dân sự; Điều 91 và 95 Luật Các tổ chức tín dụng, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP B, buộc bị đơn bà Khúc Thị Đ phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền nợ là 39.585.102 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 31.930.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/9/2020) là 7.655.102 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (29/9/2020), bà Khúc Thị Đ còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay” .

[3] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn thống nhất như quan điểm của bị đơn về việc vay vốn, khoản nợ và khả năng trả nợ. Tuy nhiên, yêu cầu, đề nghị phía Ngân hàng xem xét biện pháp hỗ trợ khách hàng như giảm lãi, kéo dài thời hạn trả nợ không được phía Ngân hàng đồng ý vì bà Đ chưa trả hết tiền nợ gốc, không được chấp nhận. Đối với yêu cầu, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bà Đ là phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[4] Xét quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí theo quy định của pháp luật. Bà Khúc Thị Đ là đối tượng thuộc hộ cận nghèo, có đủ điêu kiện được miễn án phí. Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 12, 15 và Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bà Khúc Thị Đ. Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự; Điều 91 và 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 12, 15 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP B về việc “tranh chấp Hợp đồng tín dụng” đối với bị đơn bà Khúc Thị Đ.

Buộc bà Khúc Thị Đ phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng TMCP B tổng số tiền nợ là 39.585.102 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 31.930.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/9/2020) là 7.655.102 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (29/9/2020), bà Khúc Thị Đ còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay” .

2. Về án phí:

2.1. Miễn nộp tiền án phí cho bà Khúc Thị Đ.

2.2. Ngân hàng TMCP B được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.003.197 đồng theo biên lai thu số 0007363 ngày 21/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Báo cho đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:11/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về