Bản án 11/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 11/2019/HS-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 12/2019/TLHS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Sùng Văn K; sinh ngày 26/6/2001; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã C1, huyện P, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Mông, giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Sùng A Kh và bà Trương Thị Ch; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại tại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Sùng A Kh; sinh năm 1979; trú tại: Thôn C, xã C1, huyện P, tỉnh Bắc Kạn. (Là bố đẻ của bị cáo). Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nông Thị Chiến - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

* Bị hại:

- Anh Phùng Văn Nh; sinh năm 1992; trú tại: Thôn N, xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt có lý do và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Anh Triệu Văn Ch; sinh năm 1997; trú tại: Thôn N, xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt có lý do và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lý Văn Ph; sinh ngày 29/10/2005; trú tại: Thôn L, xã C, huyện P, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt không có lý do.

- Người đại diện hợp pháp của Lý Văn Ph: Bà Đào Thị S; sinh năm 1979; trú tại: Thôn L, xã C, huyện P, tỉnh Bắc Kạn. (Là mẹ kế của Lý Văn Ph). Vắng mặt không có lý do.

* Người phiên dịch cho bị cáo: Ông Sùng Á Qu; sinh năm 1987; Nơi cư trú: Thôn C, xã C1, huyện P, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 21/11/2018, Sùng Văn K, sinh ngày 26/6/2001, trú tại: Thôn C, xã C1, huyện P, tỉnh Bắc Kạn; Sằm Văn Th, sinh ngày 29/3/2002 và Lý Văn Ph, sinh ngày 29/10/2005, cùng trú tại: thôn L, xã C1, huyện P, tỉnh Bắc Kạn đi bộ từ xã C1 xuống xã C, huyện P chơi. Khi xuống đến xã C, ba người lại rủ nhau đi thị trấn Ch, huyện B chơi tiếp. Khi đi đến khu vực đường đi xã C, huyện B thì trời tối, do đi bộ mệt nên các đối tượng ngồi nghỉ, lúc này ba đối tượng bàn nhau là đi tìm trộm xe máy để đi tiếp. Sau khi thống nhất với nhau xong, cả ba người tiếp tục đi bộ theo hướng xã C đi thị trấn Ch, huyện B. Khi đi đến khu vực thôn N, xã C, quan sát thấy một nhà dân ở phía dưới đường là nhà anh Phùng Văn Nh (Sinh năm 1992; trú tại thôn N, xã C, huyện B) có 02 chiếc xe máy dựng ở hiên nhà, thấy vậy Th một mình đi xuống trước rồi dắt chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 97B1 - 20495 của anh Nh ra khỏi hiên nhà rồi Ph và K đi xuống hộ đẩy chiếc xe lên trên đường nhựa. Sau đó, Th ngồi lên xe trôi dốc theo hướng về xã C, còn K và Ph thì chạy bộ theo sau, đi được khoảng 300 mét thì Th dừng lại đợi K và Ph. Khi K và Ph đến nơi thì dùng đèn điện thoại soi cho Th dùng chiếc búa đinh có sẵn trên xe đập ổ khóa điện và mặt nạ trước của xe rút dây mát để nổ máy xe, nổ được máy xe thì tiếng nổ to, ga cao đi sợ người dân phát hiện nên Th rút bugi tắt máy xe rồi bỏ lại xe ở đó và bảo đi tìm xe khác để trộm, K và Ph đồng ý. Cả ba người tiếp tục đi bộ ngược lại, khi đi qua nhà anh Phùng Văn Nh một đoạn do có nhiều tiếng chó sủa nên K và Ph quay lại gần chỗ bỏ chiếc xe máy Honda Dream đã trộm trước đó đợi Th, còn Th một mình tiếp tục đi tìm xe để trộm. Đi được một đoạn, Th nhìn thấy một nhà dân ở trên đường là nhà anh Sằm Văn Qu có 02 chiếc xe máy dựng ở hiên nhà, quan sát xung quanh thấy không có ai, Th đi đến chỗ hai chiếc xe rồi dắt chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 97F9 - 8549 màu sơn đỏ - đen là xe của anh Triệu Văn Ch (Sinh năm 1997; trú tại thôn N, xã C, huyện B) gửi ở nhà anh Qu, Th dắt chiếc xe đi xuống đường rồi ngồi lên xe trôi dốc đến chỗ K và Ph đứng đợi thì dừng lại, K và Ph dùng đèn điện thoại soi cho Th rút dây mát rồi nổ được máy xe, Th là người điều khiển xe chở K và Ph đi ra thị trấn Ch rồi đi xuống thành phố B, tỉnh Bắc Kạn chơi. Sáng ngày 22/11/2018, cả ba người quay về nhà, khi đi đến khu vực xã Đ, huyện B thấy xe máy sắp hết xăng nên cả ba người dừng xe để đi vào nhà dân ở gần đường với mục đính là tìm trộm xăng thì bị người dân phát hiện tạm giữ được Th và Ph, giao cho Công an xã Đ, huyện B còn K thì bỏ chạy được rồi điều khiển chiếc xe máy đi về nhà mình luôn. Đến chiều ngày 23/11/2018, Cơ quan điều tra Công an huyện B đã đến nhà Sùng Văn K tạm giữ chiếc xe máy, đồng thời mời K đến Công an huyện B để làm rõ sự việc. Tại cơ quan điều tra Công an huyện B, cả ba đối tượng Sằm Văn Th, Sùng Văn K và Lý Văn Ph đều thừa nhận rạng sáng ngày 22/11/2018 cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp 02 chiếc xe máy tại khu vực nhà dân ở thôn N, xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 25/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 10/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 97B1-20495 của anh Phùng Văn Nh tại thời điểm bị mất trộm có giá là 8.400.000 đồng, phần hư hỏng do các bị can cùng đối tượng Ph đập phá có giá trị là 430.000 đồng; chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 97F9-8549 của anh Triệu Văn Ch tại thời điểm bị mất trộm có giá là 2.057.700 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Bể đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Sằm Văn Th và Sùng Văn K về tội “Trộm cắp tài sản”. Riêng Lý Văn Ph chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không xử lý hình sự. Sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra, Sằm Văn Th đã bỏ trốn khỏi địa phương, bản thân bị can đã bị truy nã trong một vụ án khác. Hiện nay đã hết thời hạn điều tra vẫn chưa xác định được bị can đang ở đâu. Do vậy ngày 26/4/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với bị can Sằm Văn Th để giải quyết sau.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Sùng Văn K đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, đặc điểm tài sản bị mất và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 12/CT - VKSBB ngày 14 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Sùng Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều luật có nội dung: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:...”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Sùng Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65; Điều 90; Điều 91 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Sùng Văn K từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là “phạt tiền” đối với bị cáo.

Về bồi thường thiệt hại: Các bị hại là anh Phùng Văn Nh và anh Triệu Văn Ch đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với số tiền 400.000 đồng bị cáo và ông Sùng A Kh đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Bể, đề nghị trả lại cho bị cáo và ông Kh.

Về án phí: Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Sùng Văn K thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên.

Người bào chữa cho bị cáo Sùng Văn K cũng thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo và gia đình đã tự nguyện nộp một khoản tiền tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B để bồi thường thiệt hại cho bị hại. Bản thân bị cáo là người chưa thành niên, là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, do vậy đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36; Điều 90; Điều 91 Bộ luật Hình sự để xem xét cho bị cáo được hưởng mức án là 12 tháng cải tạo không giam giữ, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo đồng thời miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Sùng Văn K thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội: Ngày 22/11/2018, tại thôn N, xã C, huyện B, Sùng Văn K cùng với Sằm Văn Th và Lý Văn Ph đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe máy của anh Triệu Văn Ch và 01 chiếc xe máy của anh Phùng Văn Nh. Cơ quan chức năng kết luận, tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp, chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 97F9-8549 của anh Triệu Văn Ch có giá là 2.057.700 đồng; Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream của anh Phùng Văn Nh có giá là 8.400.000 đồng; các bộ phận hư hỏng của chiếc xe máy của anh Phùng Văn Nh có tổng trị giá là 430.000 đồng.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hành vi trộm cắp 02 chiếc xe máy đều có giá trị trên 2.000.000 đồng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể đã truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Đối với Lý Văn Ph cùng với Sùng Văn K và Sằm Văn Th trộm cắp tài sản nhưng tại thời điểm thực hiện hành vi, Lý Văn Ph chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Ph là đúng quy định.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì a dua theo bạn bè xấu, muốn có phương tiện để đi chơi nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Tuy nhiên tại thời điểm phạm tội bị cáo dưới 18 tuổi, trình độ nhận thức cũng như hiểu biết pháp luật còn hạn chế, do vậy Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc quyết định một hình phạt phù hợp đối với bị cáo để vừa đảm bảo mục đích răn đe, phòng ngừa vừa giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Xét vai trò của bị cáo trong vụ án: Trong vụ án này, bị cáo cùng các đối tượng Sằm Văn Th, Lý Văn Ph trộm cắp xe máy nhằm mục đính đem về để làm phương tiện đi chơi, bị cáo và các đối tượng cùng bàn bạc thống nhất với nhau cùng thực hiện hành vi phạm tội, không có ai là người chủ mưu, khởi xướng và không có sự bàn bạc phân công nhiệm vụ. Do vậy, xác định đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo và Sằm Văn Th, Lý Văn Ph có vai trò ngang nhau trong việc thực hiện tội phạm.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo cùng đồng bọn thực hiện hành vi trộm cắp xe máy 02 lần, cả hai lần tài sản trộm cắp đều có giá trị trên 2.000.000 đồng, vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; lần phạm tội này của bị cáo là lần đầu và tội mà bị cáo thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị cáo và gia đình đã nộp một khoản tiền là 400.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B để bồi thường tiền sửa xe máy cho anh Phùng Văn Nh, do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại”; “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”“Người phạm tội thành khan khai báo” quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX thấy mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm trong bối cảnh hiện nay người chưa thành niên phạm tội trộm cắp tài sản có xu hướng gia tăng trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, do vậy có căn cứ chấp nhận.

Xét thấy người bào chữa đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ là có phần nhẹ, chưa đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung, do vậy HĐXX không chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ Điều 91 Bộ luật hình sự, do bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung là “phạt tiền” đối với bị cáo.

[7] Về bồi thường thiệt hại: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị cáo và gia đình đã nộp một khoản tiền là 400.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B để bồi thường tiền sửa xe máy cho anh Phùng Văn Nh. Tuy nhiên tại phiên tòa, bị hại là anh Phùng Văn Nh và anh Triệu Văn Ch vắng mặt tại phiên tòa và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt trong đó các bị hại xác nhận đã được nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét về phần bồi thường thiệt hại. Do vậy cần trả lại cho bị cáo K số tiền 200.000 đồng; trả lại cho ông Sùng A Kh (là bố đẻ của Sùng Văn K) số tiền 200.000 đồng mà bị cáo và ông Kh đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã trả lại tài sản cho các bị hại nên HĐXX không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí nên HĐXX xét thấy cần miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Sùng Văn K phạm tội ‘Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65; Điều 90; Điều 91 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Sùng Văn K 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Sùng Văn K cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện P, tỉnh Bắc Kạn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo Sùng Văn K số tiền 200.000 đồng bị cáo đã nộp theo biên lai thu tiền số 03582, ngày 14/5/2019; trả lại cho ông Sùng A Kh số tiền 200.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 03585, ngày 06/6/2019, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bắc Kạn.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng Văn K.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:11/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bạch Thông - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về