Bản án 11/2019/HSST ngày 08/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 11/2019/HSST NGÀY 08/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, Tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã TB, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 14/2019/HSST, ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyn Đình D, sinh năm 1979; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn TBO, xã BV, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Đình PH và bà Nguyễn Thị X; Có vợ là Triệu Thị H và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/02/2019 đến ngày 07/03/2019 thì bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ đó đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Đình PH, sinh năm 1954; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trú tại: Thôn TBO, xã BV, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 27 tháng 02 năm 2019, tổ công tác thuộc đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy, Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn đang tuần tra kiểm soát tại khu vực thôn Bản Đén 1, xã Quảng Chu, huyện CM bắt quả tang Nguyễn Đình D, sinh năm 1979; trú tại: Thôn TBO, xã BV, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua khám xét phát hiện và thu giữ tại túi quần bên phải đang mặc trên người Nguyễn Đình D 01 gói nhỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng. D khai nhận gói nhỏ chất bột màu trắng mà Cơ quan điều tra thu giữ là chất ma túy (Heroine) của D. Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 xe mô tô đã qua sử dụng, nhãn hiệu TRAENCO, màu đỏ đen, mang biển kiểm soát BKS: 20L7- 0843.

Trên cơ sở đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn đã tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở và khu vực phụ cận của Nguyễn Đình D tại thôn TBO, xã BV, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn. Quá trình khám xét Cơ quan điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan đến ma túy.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đình D khai nhận: Khoảng 14 giờ, ngày 27 tháng 02 năm 2019, Nguyễn Đình D đi xe mô tô BKS 20L7- 0843 từ nhà sang huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên để tìm mua ma túy mục đích sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực ngã ba YN, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên D gặp một người đàn ông lạ mặt, không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu, D mua 01 gói nhỏ ma túy với người đó với số tiền là 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, D để ma túy vào túi quần bên phải đang mặc trên người và điều khiển xe mô tô về nhà. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn Bản Đén 1, xã Quảng Chu, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn thì bị lực lượng Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như đã nêu ở trên. Chiếc mô tô BKS 20L7- 0843 là của bố đẻ D tên là Nguyễn Đình PH, khi D lấy xe đi mua ma túy ông PH không biết.

Tại biên bản mở, đóng niêm phong cân xác định khối lượng ngày 27/02/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xác định: 01 gói nhỏ chất bột màu trắng thu giữ tại túi quần bên phải của Nguyễn Đình D có tổng khối lượng là 0,135 gam, niêm phong toàn bộ trong phong bì ký hiệu D1 gửi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số 52 ngày 08 tháng 3 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu D1 gửi giám định là ma túy, loại Heroin, sau khi giám định mẫu chất bột màu trắng trong phong bì kí hiệu D1 còn lại 0,110 gam cùng phong bì cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T52.

Tại bản Cáo trạng số 14/CT-VKS-CM ngày 27/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đình D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố tại bản cáo trạng và tại bản luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cụ thể như sau:

- Tuyên bố: Nguyễn Đình D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình D từ 15 đến 18 tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/02/2019 đến ngày 07/3/2019, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. - Về hình phạt bổ sung: Nguyễn Đình D không có tài sản gì. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Nguyễn Đình D.

- Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47/BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106/BLTTHS 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu D2, có 03 (ba) chữ kỹ không đọc được và 03 (ba) chữ viết "Nguyễn Đình D" bên trong là giấy gói tang vật; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T52, có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn bên trong có 0,110 gam ma túy, loại Hêrôin.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí buộc bị cáo Nguyễn Đình D phải chịu 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Đình D nói lời sau cùng, có ý kiến mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện CM; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Đình D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ, ngày 27/02/2019, tại khu vực thôn Bản Đén 1, xã Quảng Chu, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, Nguyễn Đình D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,135 gam chất ma túy (Heroine) với mục đích để sử dụng cho bản thân.

[3] Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Điều luật có nội dung:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".

[4] Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an, an ninh xã hội. Vì vậy, phải được xử lý bằng pháp luật hình sự, có hình phạt thích đáng dành cho bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 13/7/2012 bị Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn tuyên phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đến năm 2014 D chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, ngày 17/4/2018 D thi hành xong khoản tiền phạt và án phí, nay đã được xóa án tích; Năm 2010 bị Công an huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc, ngày 13/4/2011 D đã nộp phạt xong. Năm 2016 bị Công an huyện CM xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 1.500.000 đồng về hành vi: Trộm cắp tài sản, ngày 15/3/2017 D đã nộp phạt xong, nay đã được xóa tiền sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về vật chứng trong vụ án: Đối với 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu D2, có 03 (ba) chữ kỹ không đọc được và 03 (ba) chữ viết "Nguyễn Đình D" bên trong là giấy gói tang vật; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T52, có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn bên trong có 0,110 gam ma túy, loại Hêrôin là tang vật vụ án cần tịch thu tiêu hủy Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu TRAENCO, màu đỏ đen, đã qua sử dụng BKS 20L7-0843: Quá trình điều tra, truy tố xác định thuộc sở hữu của ông Nguyễn Đình PH, không liên quan đến việc phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông PH là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là không có tính khả thi. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Đình PH là chủ sở hữu của xe mô tô BKS BKS 20L7-0843. Tuy nhiên, việc D sử dụng chiếc xe đi mua ma túy thì ông PH không biết nên không xem xét xử lý đối với ông PH là phù hợp với quy định của pháp luật. Ông PH đã nhận lại chiếc xe mô tô trên và có đơn xin xét xử vắng mặt, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Đối với người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ đã bán ma túy cho Nguyễn Đình D, quá trình điều tra không xác định được danh tính cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình D 18 (Mười tám) tháng tù, được trừ 09 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành hình phạt là 17 tháng 21 ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017; Điều 106/BLTTHS 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu D2, có 03 (ba) chữ kỹ không đọc được và 03 (ba) chữ viết "Nguyễn Đình D" bên trong là giấy gói tang vật; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T52, có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn bên trong có 0,110 gam ma túy, loại Hêrôin.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận ngày 28 tháng 6 năm 2019 giữa Công an huyện CM và Chi cục Thi hành án dân sự huyện CM).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình D phải chịu 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo Nguyễn Đình D, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Đình PH. Báo cho biết bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HSST ngày 08/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về