Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXX-ST ngày 05 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X- Sinh năm 1973

2.Bị đơn: Anh Bùi Văn L- Sinh năm 1976

Cùng địa chỉ: Thôn N, H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Tại phiên toà có mặt chị X, vắng mặt anh L (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 19/02/2019 trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị X trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức và được UBND H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 06/01/2006. Sau khi cưới được 01 tháng thì anh L vi phạm pháp luật và phải đi chấp hành án, đến tháng 12/2008 anh L về vợ chồng sống chung đến giữa năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh L không chăm lo cho gia đình. Đến tháng 01/2010 anh L phạm tội và phải đi chấp hành án, từ đó chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân không quan tâm nhau, gần đây nhất ngày 30/01/2019 anh L ra trại. Do vợ chồng sống ly thân đã lâu, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh L.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Bùi Huy Ph, sinh ngày 18/7/2006. Hiện nay cháu khoẻ mạnh bình thường và đang ở với chị.

Ly hôn chị xin được trực tiếp được nuôi dưỡng cháu Ph. Chị không yêu cầu anh Lcấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 11/3/2019 và tại biên bản hoà giải ngày 03/4/2019 anh Bùi Văn L trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị X kết hôn tự nguyện, có tìm hiểu và được UBND H cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vợ chồng sau khi cưới cuộc sống bình thường, đến năm 2008 chị X đi nước ngoài và anh vẫn ở nhà nuôi con, đầu năm 2018 chị X về nước, vợ chồng không có cãi chửi nhau, vẫn sống bình thường. Nay chị Xcó đơn xin ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì chưa chuẩn bị được tâm lý và mong muốn được vợ chồng đoàn tụ.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Bùi Huy Ph, sinh ngày 18/7/2006. Hiện nay cháu khoẻ mạnh bình thường và đang ở với chị X.

Ly hôn anh muốn trực tiếp được nuôi dưỡng cháu Ph. Anh không yêu cầu chị Xcấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

- Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã tiến hành xác minh tại chính quyền xã Hà Bình, theo thông tin cung cấp thì được biết: Chị Xvà anh L là vợ chồng có đăng ký kết hôn, trong quá trình chung sống vợ chồng không hoà thuận, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau, anh L đã nhiều lần đi tù, bị Toà án xử phạt tù giam về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và một số tội khác. Hiện tại anh L với chị X không còn sống với nhau, anh chị đã ly thân, không quan tâm nhau khoảng 5 đến 7 năm nay. Anh L hiện tại không có nghề nghiệp và không làm gì.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị X, xử cho ly hôn giữa chị X anh L, về con giao cháu Bùi Huy Ph cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con; chị X phải chịu tiền án phí DSST.

Tại phiên tòa hôm nay chị X giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Bùi Văn L không có mặt tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên tòa cũng được hoãn lần thứ nhất. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh L.

[2]Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị X anh Bùi Văn Lkết hôn với nhau năm 2006 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Ý kiến của chị X vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ năm 2009, sống ly thân từ đầu năm 2010 đến nay và không còn quan tâm đến nhau nên xin ly hôn.

Ý kiến của anh L, vợ chồng không có mâu thuẫn và hiện vẫn sống bình thường. Anh Lchưa đồng ý ly hôn vì chưa chuẩn bị tâm lý và mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Xét thấy, chị X thực sự không còn tình cảm với anh L, trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh L cũng không đưa ra được phương án để vợ chồng đoàn tụ, tại phiên tòa anh vẫn vắng mặt không quan tâm đến việc giải quyết vụ án. Đến nay chị X vẫn tha thiết xin ly hôn, với lý do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được. Qua xác minh của Toà án tại chính quyền địa phương nơi anh chị sinh sống thể hiện vợ chồng anh chị đã sống ly thân nhau một thời gian dài và không còn quan hệ gì về tình cảm.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị X đã thực sự không còn tình cảm với anh L. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị và căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị X được ly hôn anh L là phù hợp.

[3]Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Bùi Huy Ph, sinh ngày 18/7/2006. Hiện nay cháu khoẻ mạnh bình thường và đang ở với chị X.

Nguyện vọng của chị X và anh L là đều muốn trực tiếp được nuôi dưỡng cháu Ph.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của anh, chị là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên. Chị X và anh L đều có khả năng chăm sóc các cháu tốt.

Hội đồng xét xử thấy rằng anh L đã nhiều lần vi phạm pháp luật và bị kết án phạt tù, hơn nữa hiện tại anh L không có nghề nghiệp ổn định. Ngoài ra nguyện vọng của cháu Ph là cũng muốn được ở với mẹ và từ trước tới nay cháu vẫn ở với mẹ. Do vậy cần áp dụng Điều 81 82 Luật HN&GĐ giao cháu Ph cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị X không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị và không đề nghị Tòa án giải quyết. Đây là sự tự nguyện của chị, nên anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị X.

[4]Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]Về án phí: Chị Nguyễn Thị X là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị X phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị X anh Bùi Văn L.

2. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu: Bùi Huy Ph - Sinh ngày 18 tháng 7 năm 2006.

2.1.Giao con chung Bùi Huy Ph cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2.Anh Bùi Văn L không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị X.

2.3.Anh L có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3.Về chia tài sản: Chị X, anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4.Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai
thu
tiền số 0000422 ngày 28/02/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị X đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị X, anh L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, đối với chị X kể từ ngày tuyên án, đối với anh L kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về