Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 39/2019/TLST - HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2019, về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử sơ thẩm vụ án dân sự số 839/TB-TA ngày 04 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn K, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Trần Đ - Trợ giúp viên pháp lý Thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi; địa chỉ trụ sở làm việc: Số 108, đường P, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn K, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

3. Người phiên dịch: Ông Phạm Văn C- Cán bộ Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi (phiên dịch tiếng Hre).

Chị L, ông C có mặt tại phiên tòa; anh H, ông Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ghi ngày 12/8/2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Phạm Thị L trình bày:

Chị L và anh H kết hôn vào ngày 05/9/2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẩn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cãi vã, anh H thường hay uống rượu say sỉn và sống không có trách nhiệm với vợ con, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được. Chị và anh H đã sống ly thân từ tháng 6/2017 cho đến nay, hiện tình cảm vợ chồng đã không còn nên chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Chị L và anh H có hai người con chung tên là Phạm Thị P, sinh ngày 13/5/2008, Phạm Văn P, sinh ngày 01/6/2013, hiện hai cháu đang sống với chị L. Nếu ly hôn, chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được nuôi hai cháu P, P và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị L trình bày không có, không yêu cầu giải quyết.

* Đi với anh Phạm Văn H: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định pháp luật nhưng đến nay anh H vẫn không đến Tòa để tham gia tố tụng và cũng không có ý kiến gì.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm Phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Căn cứ theo quy định tại Điều 28, 35, và 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Thẩm phán thụ lý đúng thẩm quyền, Chánh án ra quyết định phân công Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân đúng quy định; Thẩm phán xác định tư cách người tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử đúng theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 110,116 và Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Phạm Thị L được ly hôn với anh Phạm Văn H.

- Về con chung: Giao hai con chung Phạm Thị P, sinh ngày 13/5/2008, Phạm Văn P, sinh ngày 01/6/2013 cho chị Phạm Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng mỗi cháu là 800.000đồng/tháng/cháu cho đến khi hai con chung đủ 18 tuổi; thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 11 năm 2019.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị L trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Chị Phạm Thị L, anh Phạm Văn H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Bị đơn anh Phạm Văn H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn K, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị L thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Phạm Văn H, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn Trần Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ theo khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H, ông Đ.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị L và anh Phạm Văn H là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo chị L trình bày là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cãi vã. Hai người đã sống ly thân từ tháng 6/2017 cho đến nay, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H và mở phiên hòa giải vào ngày 07/10/2019 để có điều kiện vợ, chồng trở lại đoàn tụ nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do, nên việc chị L yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị L có hai con chung Phạm Thị P, sinh ngày 13/5/2008 và Phạm Văn P, sinh ngày 01/6/2013, chị L yêu cầu được nuôi hai con, Hội đồng xét xử xét thấy: hai cháu hiện đang sinh sống với chị L, để đảm bảo sự ổn định, phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ cần giao hai con chung cho chị L tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp; anh H phải cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu mỗi tháng là 800.000 đồng/cháu/tháng cho đến khi hai con chung đủ 18 tuổi; thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 11 năm 2019. Anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở, là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị L trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Ý kiến của Kiểm sát viên về tố tụng và nội dung vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí sơ thẩm: Chị L phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con với số tiền là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39, 147, 228, 235, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 110,116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị L và anh Phạm Văn H.

2. Về con chung: Giao hai con chung Phạm Thị P, sinh ngày 13/5/2008 và Phạm Văn P, sinh ngày 01/6/2013 cho chị Phạm Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Văn H phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu mỗi tháng là 800.000 đồng( tám trăm ngàn đồng cho một cháu trong một tháng) cho đến khi hai con chung đủ 18 tuổi.

Thời gian cấp dưỡng nuôi con chung tính từ tháng 11 năm 2019.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.

Anh Phạm Văn H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) chị L đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 011451 ngày 20 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Anh Phạm Văn H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con với số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Trường hợp bản án, Quyết định được Thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 15/11/2019), đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tơ - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về