Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 01/02/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 11/2018/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 393/2017/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự: 

- Nguyên đơn: Chị Lưu Thị P, sinh năm 1971;

Địa chỉ: Xóm T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; Có mặt.

- Bị đơn: Anh Lưu Văn T, sinh năm 1971;

Địa chỉ: Xóm T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, tại các bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Lưu Thị P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lưu Văn T chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng vào năm 1992. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống tại gia đình anh Tuyên tại thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc vui vẻ đến năm 2000 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến hai bên thường xuyên xảy ra va chạm bất hòa căng thẳng. Mâu thuẫn đã được gia đình hai bên khuyên giải nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn của vợ chồng chị căng thẳng nhất vào tháng 9 năm 2017. Hiện nay vợ chồng chị đã sống ly thân, không ai còn quan tâm và trách nhiệm với nhau nữa. Nay chị xét thấy không còn tình cảm với anh Tuyên, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng không thể chung sống với nhau, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lưu Văn T.

Về con chung: Chị và anh Lưu Văn T có 02 con chung là Lưu Thị M, sinh ngày 10 tháng 7 năm 1993 và Lưu Văn H, sinh ngày 31 tháng 12 năm 1995. Hiện nay con chung đã trưởng thành nên chị để các con tự quyết định cuộc sống của mình.

Về tài sản chung: Chị và anh Lưu Văn T tự thỏa thuận phân chia, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn là anh Lưu Văn T trình bày:

Anh Lưu Văn T xác định lời trình bày của chị Lưu Thị P về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống của vợ chồng là đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên anh T có quan điểm vợ chồng anh có mâu thuẫn cãi nhau nhưng mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, anh vẫn còn tình cảm với chị Phượng nên đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng anh đoàn tụ với nhau.

Về con chung: Anh và chị Lưu Thị P có 02 con chung là Lưu Thị M, sinh ngày 10 tháng 7 năm 1993 và Lưu Văn H, sinh ngày 31 tháng 12 năm 1995. Hiện nay con chung đã trưởng thành nên anh để các con tự quyết định cuộc sống của mình.

Về tài sản chung: Anh và chị Lưu Thị Ph tự thỏa thuận phân chia, anh không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự: Xét xử tập thể, công khai, trình tự thủ tục tiến hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành các quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập, lời khai của đương sự tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 39 của Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 51,56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử: Cho chị Lưu Thị Pg được ly hôn với anh Lưu Văn T.

Về con chung: Các con chung đã trưởng thành tự quyết định cuộc sống của mình.

Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Lưu Thị P phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập đã có đủ cơ sở xác định lời khai của chị Lưu Thị P và anh Lưu Văn T về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống giữa hai bên là đúng sự thật. Mâu thuẫn vợ chồng được thể hiện ở việc trong quá trình chung sống hai bên thường xuyên va chạm, bất hòa, đánh cãi nhau, không có hạnh phúc và hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm và trách nhiệm đến nhau nữa. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau về tình cách. Mâu thuẫn của hai bên đã được gia đình can thiệp giúp đỡ nhưng hai bên không khắc phục được. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hòa giải tìm cách khắc phục mâu thuẫn giữa chị P và anh T. Tuy nhiên anh T không đưa ra được biện pháp gì hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng. Bản thân chị P tại phiên tòa vẫn xác định chị không còn tình cảm vợ chồng, sự tin tưởng, thương yêu anh T, chị không thể tiếp tục chung sống đoàn tụ với anh Tvà đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lưu Văn T.

Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị Lưu Thị P và anh Lưu Văn T đã kéo dài và trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn, do đó yêu cầu xin ly hôn của chị P với anh T là có cơ sở, cần được chấp nhận để giải phóng cho hai bên khỏi sự ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân. Căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Lưu Thị P được ly hôn anh Lưu Văn T.

 [2] Về con chung: Chị Lưu Thị P và anh Lưu Văn T có hai con chung là Lưu Thị M, sinh ngày 10 tháng 7 năm 1993 và Lưu Văn H, sinh ngày 31 tháng 12 năm 1995. Do các con chung của chị P và anh T đã trưởng thành tự quyết định cuộc sống của mình. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [3] Về tài sản chung: Chị Lưu Thị P và anh Lưu Văn T đều có quan điểm vợ chồng tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Do vậy, Hội đồng không xem xét giải quyết, sau này hai bên có tranh chấp sẽ xem xét giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

 [4] Về án phí: Chị Lưu Thị P phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 70, 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 39 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 6, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Quốc hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lưu Thị Pa được ly hôn với anh Lưu Văn T.

2. Về con chung: Các con chung của chị Lưu Thị P và anh Lưu Văn T đã trưởng thành tự quyết định cuộc sống của mình. Hội đồng xét xử không giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Lưu Thị P và anh Lưu Văn T tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết. Sau này nếu hai bên có tranh chấp sẽ xem xét giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

4. Về án phí: Chị Lưu Thị P phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Chị Lưu Thị P đã nộp đủ số tiền án phí ly hôn sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (Biên lai thu tiền số 0007407 ngày 23 tháng 11 năm 2017) nên không phải nộp nữa.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 01/02/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:11/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về