Bản án 11/2018/DS-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 11/2018/DS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29/11/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh PhúThọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2018/TLST- DS ngày 21 tháng 3 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXX- ST ngày 29 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Kim H, sinh năm 1975

Cư trú tại: Khu P, xã T, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ.

- Bị đơn:

1. Anh Vũ Văn M, sinh năm 1983

2. Chị Lê Thị T, sinh năm 1988 (Vợ anh M)

Đều cư trú tại: Thôn 6, xã Tây Cốc, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn P, sinh năm 1977

Cư trú tại: Thôn C, xã B, huyện HY, tỉnh Tuyên Quang.

Chị H có mặt, anh M, chị T vắng mặt. Anh P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo tại Toà án, nguyên đơn là chị Lê Thị Kim H trình bày: Ngày 08/5/2015, vợ chồng chị (anh Trần Văn P là chồng của chị đã ly hôn năm 2017) có cho vợ chồng anh Vũ Văn M, chị Lê Thị T ở thôn 6, xã T, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ vay số tiền là 50.000.000đ để anh M, chị T làm ăn buôn bán. Khi vay tiền hai bên có viết giấy biên nhận, chị T và anh M đều ký nhận. Lãi suất thỏa thuận khi vay là 2%/tháng với thời hạn vay 1 năm. Sau đó anh M, chị T có trả cho anh P 5.000.000đ, số tiền này anh P đã đưa lại cho chị. Số tiền còn lại chị đã đòi nhiều lần nhưng vợ chồng chị T khất lần không trả nữa. Đến nay chị khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh M, chị T phải trả cho chị số tiền còn nợ là 45.000.000đ, chị không yêu cầu tính lãi.

Tại bản tự khai ngày 23/4/2018 bị đơn là chị Lê Thị T trình bày: Ngày 08/5/2015 vợ chồng chị có vay của vợ chồng chị Lê Thị Kim H số tiền là 50.000.000đ. Giấy biên nhận vay tiền ngày 08/5/2015 là do chị viết, chị và anh M cùng ký. Sau đó vợ chồng chị đã trả cho anh Trần Văn P được 5.000.000đ, còn nợ lại 45.000.000đ. Đến nay chị H yêu cầu vợ chồng chị trả số tiền còn nợlại là 45.000.000đ, chị đồng ý trả, còn tiền lãi thì cho chị xin.

Quá trình giải quyết Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Vũ VănM đều không có mặt. Chị H đã đề nghị giám định chữ ký, chữ viết của anh M trong giấy vay tiền. Kết luận giám định kết luận chữ ký, chữ viết trong giấy vay tiền là của anh M.

Anh Trần Văn P xác nhận trong thời gian vợ chồng còn chung sống chưa ly hôn, vợ chồng anh có cho vợ chồng chị T, anh M vay số tiền 50.000.000đ. Sau đó vợ chồng chị T có trả cho anh 5.000.000đ. Số tiền nay anh đã đưa lại cho chị H. Khi vợ chồng anh ly hôn, số tiền vợ chồng chị T vay, anh và chị H đã thỏa thuận giao toàn bộ cho chị H sở hữu. Nay chị H khởi kiện anh xác định không liên quan gì đến nữa.

Tại phiên tòa, đại điện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, xác định: Hoạtđộng tố tụng dân sự của Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng trong việc thụ lý, thu thập chứng cứ, giải quyết và xét xử đối với vụ án là đúng quy định của pháp luật.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Buộc vợ chồng chị Lê Thị T, anh Vũ Văn M trả cho chị Lê Thị Kim H số tiền còn nợ là 45.000.000đ.

- Về lệ phí giám định: Vợ chồng chị Lê Thị T, anh Vũ Văn M phải trả cho chị Lê Thị Kim H 2.000.000đ.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Vợ chồng chị Lê Thị T, anh Vũ Văn M phải nộp toàn bộ theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa chị Lê Thị Kim H với vợ chồng chị Lê Thị T, anh Vũ Văn M là tranh chấp hợp đồng vay tài sản (vay tiền).

[2]. Về nội dung tranh chấp: Chị H và chị T đều xác nhận, ngày08/5/2015, vợ chồng chị H có cho vợ chồng chị T vay số tiền là 50.000.000đ.

Sau đó vợ chồng chị T đã trả cho chị H được 5.000.000đ, còn nợ lại45.000.000đ. Khi vay hai bên có viết giấy biên nhận, có thỏa thuận lãi suất và thời hạn trả nợ. Quá trình giải quyết chị T xác nhận còn nợ chị H 45.000.000đ. Anh M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều không có mặt. Tòa án đã tiến hành trưng cầu giám định chữ viết của anh M trong giấy vay tiền. Tại bản kết luận giám định số 1039, ngày 26/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận, chữ ký, chữ viết trong giấy vay tiền là của anhM. Như vậy việc chị H yêu cầu vợ chồng chị T, anh M phải trả số tiền còn nợ 45.000.000đ là có căn cứ. Do chị H không đề nghị giải quyết tính lãi nên Hội đồng xét xử chỉ giải quyết nợ gốc mà không xem xét giải quyết tiền lãi.

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Tuy chị T thừa nhận toàn bộ số nợ và nhất trí trả, nhưng quá trình giải quyết Tòa án triệu tập để hòa giải, vợ chồng chị T, anh M đều vắng mặt, nên vợ chồng chị T, anh M phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[5]. Về lệ phí giám định: Do yêu cầu giám định được chấp nhận nên vợchồng chị T, anh M phải trả tiền lệ phí giám định cho chị H đã tạm ứng là 2.000.000đ.

[6]. Vợ chồng chị T, anh M đã được Tòa án triệu tập phiên tòa hợp lệ lầnthứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Anh P có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt theo quy định.

Xét thấy, Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 161, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 290, Điều 471, Điều 474, Điều 477 của Bộ luật dân sự năm 2005; các Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 469 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016, ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Buộc vợ chồng chị Lê Thị T, anh Vũ Văn M phải trả cho chị Lê Thị Kim H số tiền còn nợ là 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng).

2. Về lệ phí giám định: Vợ chồng Lê Thị T, anh Vũ Văn M phải trả cho chị Lê Thị Kim H số tiền lệ phí giám định là 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Vợ chồng chị Lê Thị T, anh Vũ Văn M phải nộp 2.250.000đ (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

- Trả lại cho chị Lê Thị Kim H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng), theo biên lai số AA/2016/0004537 ngày 21/3/2018, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị H có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị T, anh M và anh P vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/DS-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:11/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về