Bản án 11/2017/HS-ST ngày 05/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 11/2017/HS-ST NGÀY 05/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/12/2017, tại Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự, thụ lý số: 14/2017/TLST-HS ngày 17/11/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2017/QĐXXSTHS ngày 20/11/2017 đối với bị cáo: Lò Văn G, sinh ngày 28/8/1975, tại bản Bùa Ch 2, xã Tường Ph, huyện Phù Y, tỉnh Sơn La, cư trú tại bản Lào L, xã Phiêng B, huyện Bắc Y, tỉnh Sơn La, nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn S (đã chết) và bà Lò Thị Ế, vợ là Hoàng Thị Nh,có 03 con; tiền án, tiền sự: không, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/10/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Hoàng Thị Nh, sinh năm 1981, cư trú tại bản Lào L, xã Phiêng B, huyện Bắc Y, tỉnh Sơn La, có mặt;

2. Anh Phàng A T, sinh năm 1976, sinh trú quán tại bản Chè M, xã Mường B, huyện Phù Y, tỉnh Sơn La, vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 22/10/2017 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt qủa tang Lò Văn G đang bán trái phép chất ma túy cho Phàng A T tại khu vực bản Nh 2, xã Gia Ph, huyện Phù Y, tỉnh Sơn La. Thu giữ của Lò Văn G 05 gói chất bột màu trắng; tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam 350.000.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng); 01 chiếc điện thoại di động và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave α màu đỏ đen, biển kiểm soát 61S2-2705; thugiữ của Phàng A T 02 gói chất bột màu trắng và 01 chiếc điện thoại di động.

Quá trình điều tra Lò Văn G khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 22/10/2017 Phàng A T gọi điện thoại cho Lò Văn G hỏi mua 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) ma túy, G đồng ý và hẹn gặp nhau tại Bản Nhọt 2, xã Gia Phù Huyện Phù Yên. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày G đi từ nhà mình ở bản Lào L, xã Phiêng B, huyện Bắc Y, tỉnh Sơn La đến Đèo Nh, xã Gia Ph, huyện Phù Y mua 01 gói ma túy với một người đàn ông không biết tên hết 800.000.000đ (Tám trăm nghìn đồng), sau đó chia số ma túy mua được làm 07 gói nhỏ rồi đến bản Nhọt 2, xã Gia Phù bán cho Phàng A T 02 gói chất ma túy với giá 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Ngày 22/10/2017 cơ quan chức năng mở niêm phong, cân tịnh 02 gói chất bột màu trắng thu của Phàng A T có trọng lượng là: 0,079gam; cân tịnh 05 gói chất bột màu trắng của Lò Văn G có trọng lượng là 0,983gam. Sau đó lấy toàn bộ số chất bột màu trắng của Phàng A T ký hiệu T=0,079 gam và chất bột màu trắng của Lò Văn G ký hiệu G=0,269gam để giám định. Số chất bột màu trắng của Lò Văn G còn lại sau khi lấy mẫu vật gửi giám định là 0,714gam.

Ngày 25/10/2017 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kết luận giám định số:982/KLMT, kết luận: “Mẫu vật gửi giám định ký hiệu T, T1, G, G2, G4, G6, G8 là chất ma túy; loại chất Hêrôin. Hoàn trả mẫu giám định ký hiệu T, T1 là 0,019gam; mẫu giám định ký hiệu G,G2,G4,G6,G8 có trọng lượng là 0,179gam.

Tại bản cáo trạng số:87/KSĐT-MT ngày 17/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Y, tỉnh Sơn La truy tố bị can Lò Văn G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, do có mục đích mua ma túy để bán kiếm lời, sau khi nhận được cuộc gọi điện thoại của Phàng A T hỏi mua chất ma túy bị cáo đi từ nhà mình tại bản Lào L, xã Phiêng B, huyện Bắc Y, tỉnh Sơn La đến Đèo Nh, xã Gia Ph, huyện Phù Y mua chất ma túy với một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên 800.000.000đ (Tám trăm nghìn đồng), sau đó chia ra làm 07 gói nhỏ để bán kiếm lời, cụ thể là đã bán cho anh Phàng A T 02 gói chất ma túy với giá 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) thì bị bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Y giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lò Văn G như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn G từ 24 đến 30 tháng tù, tính từ ngày bị bắt 22/10/2017 và đề nghị không áp dụng phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự, điểm a, b, c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại là 0,912gam hêrôin; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền350.000đ của bị cáo do phạm tội mà có; tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước01 chiếc điện thoại di động của bị cáo và 01 chiếc điện thoại di động của bị cáo Phàng A T; trả lại cho chị Hoàng Thị Nh 01 chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Wave α màu đỏ đen, biển kiểm soát 61S2-2705.

Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bi cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo Lò Văn G tự bào chữa, tranh luận tại phiên tòa: Nhất trí với bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên về hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội về hành vi của bị cáo phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy là có căn cứ và đúng pháp luật.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của nhân chứng và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ cả về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng của vụ án thu được.

Đối với anh Phàng A T là người trực tiếp gọi điện thoại trao đổi và mua ma túy với bị cáo, nhưng do chất ma túy của Phàng A T không đủ trọng lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan điều tra đã xử phạt hành chính đối với anh Phàng A T là có căn cứ, đúng pháp luật. Khi bắt quả tang cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc điện thoại của anh Phàng A T dùng liên lạc, trao đổi mua ma túy với bị cáo, do đó để xử lý công cụ liên quan đến vụ án, cần đưa anh T tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Với những chứng cứ nêu trên, đủ cơ sở khách quan để kết luận: bị cáo Lò VănG phạm tội Mua bán trái phép chất ma Tý, theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Xét mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma Tuý là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng do hám lời đã bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, rõ ràng, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân của bị cao: Năm 1999 đã bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Y, tỉnh Sơn La, xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, đến nay Tuy đã được xóa án tích, nhưng quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo vẫn không Tu trí làm ăn. Ngày 22/10/2017 Trung tâm Y tế huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La tiến hành thử nước tiểu đối với bị cáo sau khi bị bắt, kết quả xét nghiệm: dương tính với chất ma túy.

Tình hình tội phạm về ma Tuý đang diễn biến phức tạp cả về tính chất và mức độ, mặc dù đã được các cấp, các ngành Tyên truyền, vận động nói không với ma Tuý, nhưng vẫn không có chuyển biến tích cực. Để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung, cần áp dụng hình phạt nghiêm đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo còn bị phạt bổ sung (phạt tiền) theo khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự, nhưng qua điều tra, xác minh về điều kiện kinh tế của bị cáo thu nhập thấp theo mùa vụ, không có tài sản để thi hành án phạt tiền, do đó không áp dụng.

Đối với người đàn ông người Mông bán ma Tuý cho bị cáo tại Đèo Nh, xã Gia Ph, huyện Phù Y, do không biết họ, tên, địa chỉ, do vậy không có căn cứ xác định để xem xét, xử lý trong vụ án này.

Vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 0,912gam hêrôin, trong đó số ma túy còn lại sau khi lấy mẫu giám định của bị cáo là 0,714gam hêrôin; số ma túy gửi giám định trả lại của bị cáo G và của anh Phàng A T là 0,198gam hêrôin.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 350.000đ bị cáo do phạm tội mà có; tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước 01  điện thoại di động nhãn hiệu Masstel-A116, số IMEL1301014147684192 cùng 01 sim điện thoại của bị cáo là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Naxim-P16 màu trắng, số IMEL 354752060348834 cùng 01 sim điện thoại của Phàng A T dùng liên với bị cáo Lò Văn G để mua chất ma túy, mặc dù Phàng A T chỉ bị xử phạt hành chính về hành vi mua trái phép chất ma túy với bị cáo, nhưng chiếc điện thoại của Phàng A T là công cụ liên quan đến vụ án, cần tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Wave α màu đỏ đen, biển kiểm soát 61S2- 2705 do bị cáo dùng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, quá trình điều tra, xác minh có căn cứ xác định là tài sản thuộc sở hữu chung cùng vợ của bị cáo là chị Hoàng Thị Nh. Do đó, cần trả lại cho chị Nh.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo không thuộc trường hợp được xét, miễn nộp tiền án phí. Do đó, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tyên bố bị cáo Lò Văn G, phạm tội Mua bán trái phép chất ma Tuý.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xử phạt  bị  cáo  Lò Văn  G 24  tháng tù, thời hạn  tù  tính từ ngày bị bắt22/10/2017.

3. Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểma, b, c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,912gam hêrôin, trong đó số ma túy còn lại của Lò Văn G sau khi lấy mẫu giám định là 0,714gam hêrôin, còn 0,198gam hêrôin mẫu vật giám định trả lại của bị cáo Lò Văn G và Phàng A T.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 350.000đ  (Ba trăm năm mươi nghìn đồng)do bị cáo phạm tội mà có;

- Tịch thu phát mại, sung công quỹ Nhà nước 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel-A116, số IMEL1301014147684192 cùng 01sim điện thoại của bị cáo Lò Văn G; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Naxim-P16 màu trắng, số IMEL354752060348834 cùng 01 sim điện thoại của Phàng A T.

Trả lại bà Hoàng Thị Nh 01 chiếc mô tô, nhãn hiệu Wave α, màu đỏ đen, biển kiểm soát 61S2-2705.

4- Án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hộikhóa 14.

Bi cáo Lò Văn G phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), nộp tại Chi cục thi hành án dân sự nơi bị cáo cư trú.

Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Sơn La trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tyên án sơ thẩm.

Anh Phàng A T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2017/HS-ST ngày 05/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:11/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về