Bản án 111/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TH, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 111/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Th, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị N, sinh năm 1978 tại thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn A, xã D, huyện Th, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị M; chồng Bùi Văn H, có 04 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2019; quá trình nhân thân: Bản án số 383/HSPT ngày 22 tháng 3 năm 2004 Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/8/2003. Chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 21/4/2010. Đã thi hành án phí hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và 650.000 đồng trong tổng số 5.000.000 đồng tiền phạt sung quỹ Nhà nước. Ngày 25/3/2015, Tòa án nhân dân huyện Th miễn nghĩa vụ thi hành án đối với khoản tiền còn lại, ngày 17/4/2015 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Th ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với Ngân, số tiền 4.350.000 đồng; tiền án: Bản án số 33/2018/HS- ST ngày 08 tháng 6 năm 2018 Tòa án nhân dân huyện Th xử phạt 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngân chưa chấp hành án do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/5/2021; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Văn B - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt;

- Người chứng kiến:

1. Ông Đào Văn L; vắng mặt;

2. Bà Đào Thị T; vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo khai do bị nghiện ma túy nên bị cáo thường xuyên đi mua ma túy về sử dụng. Khoảng 15 giờ ngày 07/5/2021, Ngân đi sang đường tàu nội thành Hải Phòng mua của một người phụ nữ không quen biết 04 gói ma túy đá với giá 600.000 đồng. Mua được ma túy, Ngân mang về nhà để lên ghế ở khu vực bếp. Ngân lấy một ít ma túy cho vào bộ đồ sử dụng ma túy sử dụng hết. Khi Ngân vừa sử dụng ma túy xong thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 109/CT-VKSTN ngày 18 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Nguyễn Thị N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Th, thành phố Hải Phòng trình bày lời luận tội đối với bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù. Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy một phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì của mẫu vật, 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn xin giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất theo đề nghị của Viện Kiểm sát.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Th, thành phố Hải Phòng. Lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Th, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Th, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Th đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định số 309/KLGĐ- MT ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị N, có khối lượng 1,33 gam ma túy (là loại Methamphetamine), phù hợp lời khai người chứng kiến, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Thị N đã có hành vi cất giấu trái phép 1,33 gam ma túy (là loại Methamphetamine) mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy, bị cáo Nguyễn Thị N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như truy tố và đề nghị kết tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Th đối với bị cáo là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Ma túy là hiểm họa của toàn xã hội, nó không những hủy hoại sức khỏe mà còn làm băng hoại về đạo đức của con người, là nguyên nhân phát sinh ra các loại tội phạm khác nên cần phải xét xử nghiêm. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích lại phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, có mẹ đẻ là thanh niên xung phong tham gia kháng chiến là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điểu 51 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về phần hình phạt: Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào quá trình nhân thân, bị cáo nhiều lần bị kết án nhưng chưa chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tù trên mức khởi điểm của khung hình phạt để giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo không có thu nhập không ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy một phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì của mẫu vật, 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38, Điều 56 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị N 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với hình phạt 10 (Mười) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy của Bản án số 33/2018/HS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2018 Tòa án nhân dân huyện Th, thành phố Hải Phòng. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 12 (Mười hai) năm 06 (Sáu) tháng tù (được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26 tháng 5 năm 2017 đến ngày 04 tháng 6 năm 2017). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy một phong bì niêm phong số 309/MT/PC09 niêm phong chất ma túy và vỏ bao gói còn lại sau giám định, một bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09 tháng 8 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Th, thành phố Hải Phòng).

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Thị N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thị N có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về