Bản án 111/2021/HSPT ngày 19/04/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 111/2021/HSPT NGÀY 19/04/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 16 đến ngày 19 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 76/2021/HSPT ngày 07 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Hoàng Phi T; do có kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Nguyễn Thy V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2021/HSST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc.

- Họ và tên bị cáo:

Hoàng Phi T, sinh năm 2001 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: khu phố N, phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Phi L, sinh năm 1970 và bà Trần Nguyễn Thy V, sinh năm: 1976; Vợ, con: chưa có; Tiền án: Không; tiền sự: không; Bị cáo bị bắt giữ, tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/7/2020 đến nay. (Có mặt)

- Người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan có kháng cáo: bà Trần Nguyễn Thy V, sinh năm: 1976. (Có mặt) Địa chỉ: tổ 4, khu phố N, phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Ngoài ra, trong vụ án này còn có bị hại và bị cáo khác nhưng không có kháng cáo nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 25/7/2020, Nguyễn Nhật K sử dụng số điện thoại 0346.510.xxx gọi cho Hoàng Phi T số điện thoại 0793.484.xxx rủ T cùng đi cướp giật tài sản, T đồng ý. Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 26/7/2020 T điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng, biển số 60B2-701.xx chở K đi trên Quốc lộ 1A hướng từ thành phố L, tỉnh Đồng Nai đến huyện X, tỉnh Đồng Nai. Đến khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn đường Quốc lộ 1A, thuộc ấp H, xã B1, huyện X, tỉnh Đồng Nai thì K phát hiện chị Trần Thị Bích N đang điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 60B5 - 754.15 đi ngược chiều, trong túi quần trước chị N có để 01 điện thoại di động nên K đã nói cho T biết và cả hai thống nhất cùng nhau giật điện thoại của chị N. Sau đó, T điều khiển xe mô tô sang đường, bám theo, vượt song song phía bên trái, ép sát vào xe mô tô chị N đang điều khiển thì K ngồi sau chồm sang dùng tay phải giật 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro mà chị N đang để ở túi quần. Sau khi K đã cướp giật được điện thoại di động của chị N thì T nhanh chóng điều khiển xe tẩu thoát về hướng thành phố L, tỉnh Đồng Nai. K muốn để lại điện thoại sử dụng cho bản thân nên K đã đưa cho T số tiền 1.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung J3.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 65/KL-HĐĐG, ngày 28/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc kết luận: Giá trị sử dụng còn lại của 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro màu trắng, tím là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng).

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro màu trắng, tím. Quá trình điều tra xác định điện thoại trên là tài sản hợp pháp của chị Trần Thị Bích N nên đã trả lại cho chị N.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Sonic biển số 60B2-701.xx, màu đỏ trắng do Hoàng Phi T đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen gắn sim số 0793.484.xxx; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J3, Pro màu vàng đồng, không có gắn sim; 01 (một) sim điện thoại di động số 0346.510.xxx.

Trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Trần Thị Bích N đã nhận lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro màu trắng, tím, không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Tại Bản cáo trạng số 202/CT-VKSXL ngày 26 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố các bị cáo Nguyễn Nhật K và Hoàng Phi T về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2021/HSST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Nhật K và Hoàng Phi T phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt: bị cáo Nguyễn Nhật K 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/7/2020.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt: bị cáo Hoàng Phi T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/7/2020.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô biển số 60B2- 701.xx, nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J3, Pro màu vàng đồng.

+ Tịch thu tiêu hủy: sim số 0793.484.xxx; 01 (một) sim điện thoại di động số 0346.510.xxx.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự: Buộc bị cáo Hoàng Phi T nộp lại 1.000.000 đồng (một triệu đồng) tiền thu lợi bất chính để sung ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định. Ngày 01/02/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Nguyễn Thy V có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về nội dung xem xét trả lại xe.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xét thấy cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Nhật K và Hoàng Phi T là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Người liên quan bà Trần Nguyễn Thy V kháng cáo xin trả lại 01 (một) xe mô tô biển số 60B2-701.xx, nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng. Xét thấy cấp sơ thẩm căn cứ quy định pháp luật để tịch thu phương tiện phạm tội đối với xe mô tô nêu trên sung quỹ Nhà nước là phù hợp quy định pháp luật. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, bà Trần Nguyễn Thy V cung cấp chứng cứ chứng minh mình sở hữu xe, Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng trả xe cho bà V và kèm giấy tờ xe.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét thấy cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Nhật K và Hoàng Phi T về tội “Cướp giật tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Các bị cáo không kháng cáo.

[2] Xét kháng cáo bà Trần Nguyễn Thy V kháng cáo xin trả lại 01 (một) xe mô tô biển số 60B2-701.xx, nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng.

Các bị cáo Nguyễn Nhật K và Hoàng Phi T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội vào khoảng 09 giờ ngày 26/7/2020, tại Quốc lộ 1A, thuộc ấp H, xã B1, huyện X, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Nhật K và Hoàng Phi T đã hực hiện hành vi cướp giật của chị Trần Thị Bích N 01 điện thoại điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro màu trắng, tím rồi nhanh chóng tẩu thoát. Giá trị tài sản của chị N bị xâm hại là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng). Các bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 60B2-701.xx nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng đứng tên Hoàng Phi T làm phương tiện phạm tội nên thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Cấp sơ thẩm xét xử tuyên tịch thu chiếc xe hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội là phù hợp.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bà Trần Nguyễn Thy V cung cấp giấy xác nhận của Cửa hàng xe gắn máy X1 xác nhận nội dung ngày 24/11/2019 bà V là người mua xe mô tô biển số 60B2-701.xx, nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng trị giá 74.000.000đ trả trước 35.000.000đ, còn lại 39.000.000đ trả góp 9 tháng qua Ngân hàng X. Đến ngày 10/8/2020, bà V đã thanh toán xong. Biên nhận và xác nhận của Doanh nghiệp tư nhân thương mại X1 về việc bà V là khách hàng mua xe, bà V là người trực tiếp giao dịch và trả tiền, chỉ nhờ bị cáo T đứng tên trên giấy đăng ký xe.

Xét thấy, chiếc xe mô tô biển số 60B2-701.xx nhãn hiệu Honda Sonic các bị cáo sử dụng mặc dù đứng tên bị cáo Hoàng Phi T, tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bà Trần Nguyễn Thy V là mẹ bị cáo và bị cáo đều thừa nhận nguồn gốc xe là của bà V. Bà V là người trực tiếp đến cửa hàng để mua xe nhưng do xe có kiểu dáng nam và chồng bà V không mang theo CMND, không thể đứng tên trên giấy đăng ký xe nên bà đã nhờ bị cáo T đứng tên. Thực tế, bà V là người quản lý, sử dụng xe. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo mượn xe của bà V để đi ăn sáng và bà V đồng ý mà không biết bị cáo dùng xe vào việc phạm tội. Ngoài ra, bà V còn cung cấp biên nhận của Công ty cổ phần thế giới di động và Ngân hàng X về việc bà V là người trực tiếp nộp tiền trả góp để mua xe.

Từ những căn cứ trên đủ cơ sở để xác định nguồn gốc xe mô tô biển số 60B2-701.xx nhãn hiệu Honda Sonic là của bà Trần Nguyễn Thy V, bị cáo Hoàng Phi T chỉ là người đứng tên hộ, do đó HĐXX chấp nhận kháng cáo của bà V, sửa bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng.

Do tại cấp phúc thẩm bà V cung cấp tài liệu, chứng cứ mới nên sửa án sơ thẩm do lỗi khách quan.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, khoản 1, Điều 355; điểm a, khoản 1, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Chấp nhận kháng cáo của bà Trần Nguyễn Thy V về việc xin trả lại xe mô tô biển số 60B2-701.xx, nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng.

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2021/HSST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc về xử lý vật chứng.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại 01 (một) xe mô tô biển số 60B2-701.xx, nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng cho bà Trần Nguyễn Thy V.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc).

Trả lại 01 (một) bản chính Giấy đăng ký xe mô tô biển số 60B2-701.xx, nhãn hiệu Honda Sonic, màu đỏ, trắng cho bà Trần Nguyễn Thy V. Theo biên bản giao nhận ngày 19/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai (đã trả xong).

Về án phí phúc thẩm: Căn cứ Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bà V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2021/HSPT ngày 19/04/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:111/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về