Bản án 111/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 111/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Trong ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:99/2020/TLST - HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2020/QĐXXST - HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C, sinh ngày 08 tháng 02 năm 1974;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm B, xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 01/12. Con ông: Nguyễn Văn Đ, Sinh năm 1954 (Đã chết); Con bà: Lưu Thị N, Sinh năm 1953. Trú tại: Xóm B, xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Vợ: Đỗ Thị H, Sinh năm 1977. Có 02 con: Con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2005. Gia đình có 06 (sáu) anh em, bị cáo là con thứ 02 (hai) trong gia đình;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án số: 13/2010/HSST ngày 21/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Trà Lĩnh (nay là huyện Trùng Khánh), tỉnh Cao Bằng xử phạt 07(bẩy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 07/01/2016 chấp hành xong bản án (bản án đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/9/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Anh Đỗ Văn Nam, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Trú quán: Xóm B, xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ 00 phút ngày 20/9/2020, Tổ công tác Công an huyện Đại Từ và Công an xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đến nhà Nguyễn Văn C để giáo dục, kiểm điểm về việc C thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Khi làm việc với Tổ công tác, C đã tự giác lấy từ túi áo khoác của C đang treo tại móc áo ngoài sân giếng ra giao nộp cho Tổ công tác 01 gói chất bột màu trắng được gói bằng 02 lớp (lớp bên ngoài là túi nilong màu trắng, lớp bên trong là giấy một mặt màu trắng và mặt nhiều màu), C khai là ma túy loại heroine mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng là gói chất bột màu trắng (niêm phong vào phong bì ký hiệu A) và chuyển toàn bộ hồ sơ, đối tượng cùng vật chứng đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Đại Từ để giải quyết theo thẩm quyền.

Hồi 11 giờ 50 phút ngày 20/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Đại Từ tiến hành khám xét người, chỗ ở, đồ vật đối với Nguyễn Văn C tại xóm B, xã V, huyện Đại Từ, kết quả: không thu giữ gì.

Hồi 15 giờ 25 phút ngày 20/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên đã tiến hành mở gói niêm phong, cân toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của C trong phong bì ký hiệu A có khối lượng là 0,285 gam. Đã tiến hành lấy mẫu vật gửi giám định theo quy định (niêm phong trong bì ký hiệu A1);

Tại kết luận giám định số: 1226/KL-KTHS ngày 28/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,285 gam.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn C khai nhận như sau: Bản thân C là người nghiện ma túy, khoảng 07 giờ 00 phút ngày 19/9/2020, C một mình đi xe buýt từ nhà xuống khu vực phường Ba Hàng, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên mục đích tìm mua chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực ngã tư đèn xanh đỏ thuộc phường Ba Hàng, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, C gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết tên tuổi, địa chỉ) qua giao dịch C đã mua được 01 gói ma túy loại Heroine được gói bằng 02 lớp (lớp bên ngoài là túi nilong màu trắng, được gói bên trong là giấy một mặt màu trắng và mặt nhiều màu) với giá 600.000đồng. Sau khi mua được heroine, C cất giấu heroine trong người và đi xe buýt về nhà, khi về đến nhà C đã lấy một phần nhỏ heroine ra sử dụng, phần còn lại C gấp lại cất giấu vào túi áo khoác treo trên tường ngoài sân giếng nhà C để tiếp tục sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 07 giờ 00 phút ngày 20/9/2020 khi C đang ở nhà thì Tổ công tác Công an huyện Đại Từ và Công an xã V, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đến nhà C để giáo dục, kiểm điểm về việc C thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy, C đã tự giác giao nộp gói heroine còn lại. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm 01 phong bì niêm phong ký hiệu A1 còn lại sau giám định, 01 phong bì niêm phong ký hiệu A2 là vỏ bao gói mẫu giám định; 01 chiếc áo khoác màu nâu được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 96/CT - VKSĐT ngày 27/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị HĐXX. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn C mức án từ 24 đến 30 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội, không oan. Xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét khách quan toàn bộ các chứng cứ, ý kiến đề nghị của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những tài liệu chứng cứ khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án từ khi khởi tố vụ án, điều tra, truy tố: Cơ quan điều tra Công an huyện Đại Từ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2]. Xét hành vi của bị cáo, thấy: Bị cáo Nguyễn Văn C là người trưởng thành có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, đã từng bị xét xử 07 năm tù về tội danh trên; bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy và các quy định của pháp luật trong việc quản lý, sử dụng chất ma túy nhưng ngày 20/9/2020 bị cáo vẫn cố tình tàng trữ 0,285 gam heroin mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nội dung điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS quy định:

“ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: … c. Herroin…. Có khối lượng từ 0,1 đến dưới 05 gam” [3]. Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo: tính chất của vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5]. Xét nhân thân của bị cáo: Bị cáo xuất thân từ gia đình lao động, được nuôi ăn học, có đầy đủ nhận thức các việc làm đúng sai của bản thân nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện đã trở thành đối tượng nghiện ma túy. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2010 đã bị Tòa án nhân dân huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng xử phạt 7 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

[6]. Về hình phạt: Căn cứ hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. HĐXX thấy, mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo C mang tính chất giản đơn, có thái độ thành khẩn khai báo nhưng bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, đã từng bị xét xử về tội ma túy nên cần thiết phải có hình phạt tù nghiêm khắc đối với bị cáo mới đảm bảo tính dăn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có công ăn việc làm và thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7]. Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong ký hiệu A1 còn lại sau giám định; 01 phong bì niêm phong ký hiệu A2 là vỏ bao gói mẫu giám định. Đây là vật chứng của vụ án, Nhà nước cấm lưu hành cần được tịch thu và tiêu hủy. 01 chiếc áo khoác màu nâu là tài sản riêng của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu được nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST sung công quỹ Nhà nước.

[9]. Các nội dung có liên quan khác: Về nguồn gốc Heroine C khai mua của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ tại khu vực ngã tư đèn xanh đỏ thuộc phường Ba Hàng, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Do không xác định được lai lịch địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý đối với người đàn ông trên.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn C 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/9/2020.

Áp dụng: Điều 329 BLTTHS quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày xét xử sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Văn C.

Vật chứng: Áp dụng Điều 106 BLTTHS; Điều 47 BLHS.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ký hiệu A1 còn lại sau giám định; 01 phong bì niêm phong ký hiệu A2 là vỏ bao gói mẫu giám định; 01 chiếc áo khoác màu nâu.

(Đặc diểm, tình trạng vật chứng như mô tả trong quyết định chuyển vật chứng số 80/QĐ - VKSĐT ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ và các biên bản giao nhận vật chứng kèm theo).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Luật án phí lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí HSST sung ngân sách nhà nước.

Án xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 111/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về