Bản án 111/2020/HSPT ngày 27/11/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 111/2020/HSPT NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 120/2020/TLPT- HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Mai Văn T, do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa đối với bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HSST ngày 27/08/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị:

MAI VĂN T (tên gọi khác: N) - Sinh năm 1990 tại K Nơi cư trú: Thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh K.

Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Mai Văn T1 và bà: Trần Thị D Vợ: Lê Thị Hồng N (sinh năm: 1991), có một con sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 24/12/2019, Lê Trường K đi ngang qua khu vực cầu Ri thuộc thôn T1, xã N, thị xã N thấy xe mô tô biển kiểm soát 79L3-A của ông Huỳnh Tấn D dựng ở lề đường và có gắn chìa khóa điện nhưng không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. K đi tới vị trí dựng xe, bật chìa khóa điện rồi điều khiển xe đến thôn T1, xã N bán cho Mai Văn T, T biết rõ xe mô tô trên do K trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua với số tiền 500.000 đồng, khi sự việc bị phát hiện, T đã giao xe cho Công an xã N.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐG ngày 21/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã N, tỉnh K kết luận: xe mô tô biển kiểm soát 79L3-A trị giá 2.500.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HSST ngày 27/8/2020 của Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh K đã quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Mai Văn T 6 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn quyết định tội danh, hình phạt của bị cáo Lê Trường K, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 28/8/2020, bị cáo Mai Văn T có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 281/QĐ-VKS-HS ngày 10/9/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa kháng nghị bản án số 37/2020/HSST ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa với nội dung: đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa sửa bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa theo hướng áp dụng thêm khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Mai Văn T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên nội dung kháng nghị tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 281/QĐ-VKS-HS ngày 10/9/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Mai Văn T mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Đơn kháng cáo của bị cáo đề ngày 28/8/2020, được nộp trực tiếp cho Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa vào cùng ngày. Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 281/QĐ-VKS-HS ngày 10/9/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa được ban hành và gửi đến Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa vào ngày 10/9/2020. Theo quy định tại Điều 333, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đơn kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là hợp pháp, do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Mai Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi bị cáo đã thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của Lê Trường K, lời khai của ông Huỳnh Tấn D và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở để xác định rằng, vào ngày 24/12/2019, mặc dù biết rõ xe mô tô loại Wave, biển kiểm soát số 79L3-A mà Lê Trường K mang đến bán cho mình là tài sản do K trộm cắp được của người khác nhưng bị cáo Mai Văn T vẫn có hành vi mua lại chiếc xe nói trên để sử dụng. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HSST ngày 27/8/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa xét xử bị cáo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về nội dung kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa:

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, trật tự quản lý nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Mai Văn T như: sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản được thu hồi và đã trả lại cho chủ sở hữu, gây thiệt hại không lớn, theo các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo là lao động chính trong gia đình và đang nuôi con nhỏ, hoàn cảnh gia đình nhiều khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, nhận thấy bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và có nơi cư trú ổn định; có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cần thiết cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và buộc bị cáo thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, sửa án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

[4] Về án phí: Bị cáo Mai Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời gian kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 345; điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1/ Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Văn T và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo MAI VĂN T 6 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 1 năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Mai Văn T cho Ủy ban nhân dân xã N, thị xã N, tỉnh K để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã N trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.

2/ Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Bị cáo Mai Văn T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2020/HSPT ngày 27/11/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:111/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về