TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 111/2020/HS-PT NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 77/2020/TLPT-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Trần Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 10/07/2020 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
- Bị cáo có kháng cáo: Trần Văn H,sinh năm 1981 tại tỉnh CM; Nơi cư trú: Khóm B, Phường N, thành phố CM, tỉnh CM; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Con ông Trần Văn B sinh năm 1953 và bà Đào Thị N sinh năm1955; Vợ: Nguyễn Như L; Bị cáo có 02 người con (lớn nhất 04 tuổi và nhỏ nhất 10 tháng tuổi); Tiền sự: Không có; Tiền án: Không có. Nhân thân: Ngày 20/01/2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử 36 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 09/2003/HSST, bị cáo đã chấp hành xong. Ngày 08/11/2005, bị Tòa án nhân dân huy n Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh xử 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 19/2003/HSST, bị cáo đã chấp hành xong; Ngày 08/12/2007 bị đưa vào cơ sở cai nhi n bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Vĩnh Long về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong; Ngày 21/4/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xử 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 47/2009/HSPT, bị cáo chấp hành xong ngày 28/01/2013; Ngày 26/3/2015, bị Tòa án nhân dân huy n Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh xử 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 09//2015/HSST, bị cáo chấp hành xong ngày 11/12/2015. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/11/2019, tạm giam từ ngày 22/11/2019 đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án có 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo; bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 50 phút ngày 19/11/2019 tại nhà số xxx, đường HHT, Phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố M phối hợp với Công an Phường B, thành phố M bắt quả tang Trần Văn H đang cất giữ trái phép chất ma túy trong túi quần nhỏ phía trước bên phải bị cáo đang mặc trên người. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói nylon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng được cho vào bì thư niêm phong lại có chữ ký của bị cáo Trần Văn H và dấu mộc đỏ của Công an Phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; đồng thời còn thu giữ 01 xe môtô hiệu Attila màu đỏ, gắn biển số 59N2- 183.53, số máy MVT3AD031320, số khung 12CDAD031320; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 63B9-623.01, số máy MVT3AD031320, số khung 12CDAD031320 tên Nguyễn Thị H1, sinh năm: 1971, ngụ số xx, đường ĐTN, Phường N, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Theo Kết luận giám định số 198/KLGĐ-PC09 ngày 21/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín để trong một bì thư màu trắng được niêm phong lại có chữ ký của bị cáo Trần Văn H và dấu mộc đỏ của Công an Phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang là ma túy, có khối lượng 0.4568 gam, loại Methamphetamine.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 10 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 19/11/2019.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo về quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
* Ngày 14 tháng 7 năm 2020, bị cáo Trần Văn H có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Trần Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố M đã nêu. Bị cáo rất ăn năn hối hận đối với tội lỗi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang trong phần tranh luận phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đã phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn H giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố M.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa Phúc thẩm, bị cáo Trần Văn H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã nêu, lời nhận tội của bị cáo H đã phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố M lập ngày 19/11/2019, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng và lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đầy đủ cơ sở xác định: Khoảng 14 giờ 50 phút ngày 19/11/2019 tại nhà số 1N6, đường HHT, Phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang Công an thành phố M bắt quả tang Trần Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong túi quần nhỏ phía trước bên phải bị cáo đang mặc trên người, tang vật thu giữ 01 gói nylon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tại Kết luận giám định số 198/KLGĐ- PC09 ngày 21/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín để trong một bì thư màu trắng được niêm phong lại có chữ ký của bị cáo Trần Văn H và dấu mộc đỏ của Công an Phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang là ma túy, có khối lượng 0.4568 gam, loại Methamphetamine. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Bị cáo Trần Văn H là người đã thành niên có đầy đủ sức khoẻ và khả năng để nhận thức về hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm, sẽ gây hậu quả tác hại rất lớn cho xã hội, nhưng chỉ vì để thỏa mãn cơn nghiện của mình, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý đi mua ma tuý để tàng trữ và sử dụng. Nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi và hậu quả mà mình đã gây ra.
[ 3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn H xin giảm nhẹ hình phạt Hội đồng xét xử nhận thấy: hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, nó không những xâm phạm trực tiếp đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, mà nó còn gây tác hại to lớn đối với con người và cộng đồng, gây ra nhiều tệ nạn trong xã hội và là nguyên nhân làm mất an toàn xã hội , làm băng hoại đạo đức. Đồng thời, là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác gây mất trật tự trị an xã hội, là mối quan tâm lo lắng của mỗi người, mỗi gia đình trong xã hội. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị kết án về các tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản và bị đưa vào cơ sở cai nhi n bắt buộc, mặc dù bị cáo đã chấp hành án xong và được xóa án tích. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố, bị cáo không chịu làm ăn lương thiện để trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Điều này đã thể hiện bị cáo xem thường pháp luật, không tích cực sửa chữa lỗi lầm, ăn năn hối cải. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn H 02 năm tù là thỏa đáng, mức án trên đã tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo cũng như để giáo dục, răn đe và phòng chống tội phạm. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào khác. Nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn H. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
[4] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.
Các phần khác của quyết định án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
1/ Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn H.
- Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 10 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 19/11/2019.
2/ Về án phí: Bị cáo Trần Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3/ Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 111/2020/HS-PT ngày 21/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 111/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về