Bản án 111/2018/HSST ngày 15/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 111/2018/HSST NGÀY 15/10/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 tháng 10 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 99/2018/HSST ngày 28/8/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Mai Văn T (Chân M), sinh năm 1987 tại quận Ô Môn, Cần Thơ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 4, ấp Bình Khánh, xã Mỹ Kh, Tp.Long Xuyên, An Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 03/12; con ông Mai Văn U (chết) và bà Trần Thị Ph (chết); Bị cáo chung sống như vợ chồng với Lê Thị V, sinh năm1986; Có hai con, con lớn sinh năm 2009 và nhỏ sinh năm 2012; Tiền án: Ngày 28/01/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 26/9/2013 chấp hành xong hình phạt tù; Ngày 25/9/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 06/6/2016 chấp hành xong hình phạt tù;Tiền sự: không.

Bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Cao Lãnh – Đồng Tháp và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Nguyễn Thành L, sinh năm 1995; Nơi cư tú: Số 144, tổ 6, ấp Bình Khánh, xã Mỹ Khánh, Tp.Long Xuyên, tỉnh An Giang – Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Lê Thị Sơn C, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Số 487C/25, khóm Bình Thới 3, phường Bình Khánh, Tp.Long Xuyê, tỉnh An Giang – Vắng măt.

2. Hồ Văn N, sinh năm 1969; Nơi cư trú: Tổ 5, ấp Bình Khánh, xã Mỹ Khánh, Tp.Long Xuyê, tỉnh An Giang – Có măt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14/8/2016, Mai Văn T mượn xe mô tô biển số 50H1-3683 của chị Lê Thị Sơn C để sử dụng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T điều khiển xe chở bạn gái của T là Nguyễn Thị T đến nhà anh Võ Văn M ở tổ 5, ấp Bình Khánh, xã Mỹ K, thành phố Long Xuyên để uống rượu, trên đường đi T gặp Nguyễn Thành L đang điều khiển xe mô tô hiệu Majesty biển số 67K4-8372 nên T rủ L cùng đi chung. Khi đến nơi, anh L và T dựng xe trước cửa nhà của anh M rồi cả ba vào uống rượu với anh M và anh Hồ Văn N, sau khi uống rượu được khoảng 15 phút, do xe hết xăng nên anh L mượn xe của T đi mua card điện thoại. Lúc này, T nhìn thấy xe của anh L dựng trước nhà nhưng chưa rút chìa khóa nên đã nảy sinh ý đinh lấy trộm. Để thực hiện ý đinh, lợi dụng lúc anh M vào phòng tắm, anh N đi mua rượu, T ra dẫn xe mô tô biển số 67K4-8372 của anh L rồi chở T đến thành phố Cân Thơ chơi. Ngày 15/8/2016, chị Sơn C thấy xe mô tô biển số 50H1-3683 của chị dựng trước nhà của anh M nên vào gặp và xin nhận lại xe.

Đến tháng 11/2016, T đưa xe mô tô biển số 67K4-8372 cho T không rõ họ, địa chỉ gần khu vực bến xe thành phố Cần Thơ bán cho người không rõ họ, tên với giá 2.300.000đ lấy tiền tiêu xài. Anh L sau khi biết T bị tạm giam về hành vi “Cố ý gây thương tích” nên đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên trình báo sự việc.

Kết luận định giá tài sản số 292/KL.HĐ ngày 09/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Long Xuyên xác định: Xe mô tô nhãn hiệu Majesty, biển số 67K4 – 8372, đã qua sử dụng, còn lại 50%, trị giá 3.775.000đ.

Cáo trạng số: 99/VKS-HS ngày 27/8/2018 của Viện kiểm sát Nhân dân thành phố Long Xuyên, truy tố Mai Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên toà sơ thẩm:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Mai Văn T từ 02 năm đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 07 năm tù tại bản án số 56/2017/HSST ngày 30 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên. Hình phạt chung bị cáo chấp hành từ 09 năm đến 10 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Thành L đã được gia đình bị cáo bồi thường giá trị xe mô tô biển số 67K4 – 8372 do bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được với số tiền 5.000.000đ và không yêu cầu gì thêm về dân sự nên đề nghị không xét đến.

Bị cáo Mai Văn T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án, về tội danh và hình phạt. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, Kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận: Do không có nghề nghiệp ổn định và cần có phương tiện để đi lại nên vào ngày 14/8/2016, T cùng với bạn gái Nguyễn Thị T và Nguyễn Thành L đến nhà anh M để uống rượu với anh M, anh N, khi đó anh L có dựng xe mô tô biển số 67K4-8372 của anh trước nhà của anh M nhưng không rút chìa khóa. Sau khi nhậu được khoảng 15 phút, lợi dụng lúc anh anh L đi mua card điện thoại không gửi xe của anh cho ai trông giữ, lợi dụng lúc anh M vào phòng tắm, anh N đi mua rượu. T đã lén lút lấy trộm xe mô tô nhãn hiệu Majesty biển số 67K4-8372, trị giá 3.775.000đ của anh L xuống Cần Thơ chơi và sau đó bán lấy tiền tiêu xài như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra là phù hợp nhau và phù hợp với lời khai của người bị hại; Kết luận định giá số 292/KL-HĐ ngày 09/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Long Xuyên cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, do bị cáo đã từng hai lần bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích thì bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo Mai Văn T về tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

 [3] Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người trưởng thành, khoẻ mạnh đủ khả năng nhận thức được hành vi của bản thân. Lẽ ra, sau khi chấp hành xong hình phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản” trong khi chưa được xóa án tích, khi về địa phương thì bị cáo phải biết sửa đổi và tìm kiếm cho mình một công việc phù hợp để tạo thu nhập nuôi sống bản thân và sống có ích cho xã hội thế nhưng với bản tính lười biếng lao động, thích chơi bời, hưởng thụ mà bị cáo bất chấp tất cả để tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến tài sản công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm mất lòng tin lẫn nhâu trong mối quan hệ bạn bè, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống bình thường trong xã hội. Bản thân bị cáo nhiều lần chấp hành hình phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không biết sửa đổi mà liên tiếp cố ý phạm tội, điều này chứng tỏ bị cáo là người xem thường pháp luật và rất khó giáo dục. Do đó, cần xử phạt nghiêm để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên có xem xét, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 nên được Hội đồng xét xử xem xét.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

 [4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Thanh L đã được gia đình bị cáo T bồi thường giá trị xe mô tô biển số 67K4 – 8372 do bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được với số tiền 5.000.000đ và không yêu cầu gì thêm về dân sự nên không xét đến.

 [5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Văn T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015; điều 38, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.

 [1] Xử phạt: Bị cáo Mai Văn T 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại bản án hình sự số 56/2017/HSST ngày 30 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên. Hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 09 (chín) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2017.

 [2] Về án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

 [6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2018/HSST ngày 15/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:111/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về