Bản án 111/2018/HNGĐ-ST ngày 29/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 111/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 456/2018/TLST.HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2018, về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số: 96/2018/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Ông Bùi Lê Thanh Th, sinh năm 1993. Có mặt.

Địa chỉ: khóm BT, phường BK, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

2.Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Nh, sinh năm 1995. Vắng mặt.

Địa chỉ: khóm BĐ, phường BĐ, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử nguyên đơn ông Bùi Lê Thanh Th trình bày và có ý kiến như sau:

- Về hôn nhân: Giữa ông Bùi Lê Thanh Th và bà Huỳnh Thị Nh do quen biết tìm hiểu nhau nên đã tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2015, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số: 60/2015, quyển số: 01/2015 vào ngày 31/3/2015 tại Ủy ban nhân dân phường BK, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẩn, do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, mặc dù cả hai đã nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không khắc phục được và vợ chồng đã ly thân từ khoảng đầu năm 2018 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm của vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông Bùi Lê Thanh Th yêu cầu Tòa án cho ông được ly hôn với bà Huỳnh Thị Nh.

- Về con chung: Có 02 (hai) con chung chưa trưởng thành tên Bùi Huỳnh Hữu L, sinh ngày 09/07/2016 và Bùi Huỳnh Phương Th, sinh ngày 09/07/2016. Hiện cháu L và cháu Th đang sống chung với ông Bùi Lê Thanh Th. Khi ly hôn ông Bùi Lê Thanh Th yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung chưa trưởng thành tên Bùi Huỳnh Hữu L, sinh ngày 09/07/2016 và Bùi Huỳnh Phương Th, sinh ngày 09/07/2016; không yêu cầu bà Nh phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên ông Bùi Lê Thanh Th và bà Huỳnh Thị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn bà Huỳnh Thị Nh đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng bà Huỳnh Thị Nh không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án và không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Theo biên bản xác minh ngày 05/9/2018 của Công an phường BĐ, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang thể hiện bà Huỳnh Thị Nh có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ: khóm BĐ, phường BĐ, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Hiện nay bà Huỳnh Thị Nh vẫn sinh sống và có mặt tại địa phương.

- Tại phiên tòa:

+ Ông Bùi Lê Thanh Th trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cho đến việc diễn biến tại phiên tòa của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh trụng. Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên nhận định:

 [2] Về tố tụng: Bà Huỳnh Thị Nh đã được Tòa án triệu tập dự phiên tòa đúng theo quy định Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhưng bà Huỳnh Thị Nh vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Huỳnh Thị Nh.

 [3] Về hôn nhân: Giữa ông Bùi Lê Thanh Th và bà Huỳnh Thị Nh là hôn nhân hợp pháp bởi ông bà có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014. Xem xét yêu cầu xin ly hôn của ông Bùi Lê Thanh Th, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng của ông bà đã không còn hạnh phúc, do một bên không còn tình cảm, đã có khoảng thời gian ly thân, cả hai có những mâu thuẩn mà không thể hàn gắn được do giữa ông bà không có sự cảm thông cho nhau . Trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, bà Huỳnh Thị Nh không cung cấp ý kiến và không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, phiên tòa thể hiện chưa có sự quan tâm đối với yêu cầu ly hôn của ông Bùi Lê Thanh Th. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của ông Bùi Lê Thanh Th là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, ông Bùi Lê Thanh Th được ly hôn với bà Huỳnh Thị Nh.

 [4] Về nuôi con chung: Theo giấy khai sinh của Bùi Huỳnh Hữu L, Bùi Huỳnh Phương Th và lời trình bày của ông Bùi Lê Thanh Th thì ông và và bà Huỳnh Thị Nh có con chung chưa trưởng thành là cháu Bùi Huỳnh Hữu L, sinh ngày 09/07/2016 và Bùi Huỳnh Phương Th, sinh ngày 09/07/2016, hiện do ông Th đang nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy, con chung được ông Th giáo dục, chăm sóc, quyền lợi của con chung được đảm bảo, nên ông Bùi Lê Thanh Th yêu cầu tiếp tục nuôi con chung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, ông Bùi Lê Thanh Th được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cháu Bùi Huỳnh Hữu L, sinh ngày 09/07/2016 và Bùi Huỳnh Phương Th, sinh ngày 09/07/2016; bà Huỳnh Thị Nh có quyền và ngh a vụ thăm nom con. Ông Bùi Lê Thanh Th và các thành viên trong gia đình của ông Bùi Lê Thanh Th không được cản trở bà Huỳnh Thị Nh thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Ông Bùi Lê Thanh Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về ngh a vụ cấp dưỡng nuôi con.

 [5] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Bùi Lê Thanh Th trình bày giữa ông và bà Huỳnh Thị Nh không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà Huỳnh Thị Nh không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án, vắng mặt tại phiên hòa giải và tại phiên tòa, nên không đối chất được về tài sản chung và nợ chung có hay không, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

 [6] Về án phí: Ông Bùi Lê Thanh Th là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 48 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Bùi Lê Thanh Th và bà Huỳnh Thị Nh.

2.Về nuôi con chung:

2.1.Giao con chung chưa trưởng thành tên Bùi Huỳnh Hữu L, sinh ngày 09/07/2016 và tên Bùi Huỳnh Phương Th, sinh ngày 09/07/2016 cho ông Bùi Lê Thanh Th trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Huỳnh Thị Nh có quyền và ngh a vụ thăm nom con. Ông Bùi Lê Thanh Th và các thành viên trong gia đình của ông Bùi Lê Thanh Th không được cản trở bà Huỳnh Thị Nh thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

2.2.Ông Bùi Lê Thanh Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Ông Bùi Lê Thanh Th trình bày tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

4.Về án phí: Ông Bùi Lê Thanh Th phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu 0008464 ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Ông Bùi Lê Thanh Th đã nộp đủ.

5.Về quyền kháng cáo: Ông Bùi Lê Thanh Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bà Huỳnh Thị Nh vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2018/HNGĐ-ST ngày 29/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:111/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về