Bản án 111/2018/HNGĐ-ST ngày 19/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 111/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2018/TLST-HNGĐ, ngày 21/5/2018 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2018/QĐXXST - HNGĐ, ngày 01/11/2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Mỹ D, sinh năm 1983 (có mặt). Nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Anh Phạm Văn C, sinh năm 1981 (xin vắng mặt). Nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 21/5/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ D trình bày: Chị và anh Phạm Văn C kết hôn do quen biết, tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre vào ngày 19/10/2001. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc khoảng 08 năm thì phát sinh mâu thuẫn, đã sống ly thân cách nay khoảng 05 năm. Nguyên nhân do anh C cờ bạc, có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, thời gian ly thân hai bên không có hàn gắn. Nay chị yêu cầu xin ly hôn với anh C. Về con chung có 02 cháu tên Phạm Tuấn K, sinh ngày 28/6/2002 và Phạm Thị Thảo N, sinh ngày 20/9/2004 hiện nay đang sống chung với anh C, khi ly hôn chị để anh C trực tiếp nuôi con, chị không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có.

Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Văn C trình bày: Về thời gian kết hôn, quá trình chung sống giống như lời trình bày của chị D. Nguyên nhân mất hạnh phúc là do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường hay cự cãi nhau. Nay anh đồng ý ly hôn với chị D. Về con chung anh thống nhất như yêu cầu của chị D, anh đồng ý nuôi con không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có.

Tại phiên tòa bà Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 55, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị D và anh C, về con chung anh C trực tiếp nuôi 02 cháu Phạm Tuấn K, sinh ngày 28/6/2002 và Phạm Thị Thảo N, sinh ngày 20/9/2004 hiện nay đang sống chung với anh C, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con do anh C không có yêu cầu. Tài sản chung và nợ chung không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Bị đơn anh Phạm Văn C có yêu cầu xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt anh C là phù hợp.

 [2] Về quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh C, Hội đồng xét xử thấy rằng anh chị kết hôn trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre vào ngày 19/10/2001, quá trình kết hôn tuân thủ đúng các quy định về hôn nhân và gia đình nên được xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn anh chị sống hạnh phúc được một thời gian dài thì phát sinh mâu thuẫn dẫn đến sống ly thân, trong quá trình giải quyết vụ án cả hai anh chị đều có nguyện vọng được ly hôn với nhau, xét thấy yêu cầu trên là tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 55, 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên yêu cầu xin ly hôn của chị D là có căn cứ để chấp nhận.

 [3] Về con chung: Trong quá trình chung sống chị D và anh C có 02 con chung tên Phạm Tuấn K, sinh ngày 28/6/2002 và Phạm Thị Thảo N, sinh ngày 20/9/2004 hiện nay đang sống chung với anh C, khi ly hôn anh chị thỏa thuận anh C trực tiếp nuôi 02 con, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy sự thỏa thuận của anh chị là tự nguyện, đồng thời từ khi anh chị sống ly thân đến nay thì 02 cháu K và N sống chung với anh C (cháu N có nguyện vọng sống chung với anh C nếu chị D và anh C ly hôn, cháu K không xác định được muốn sống chung với chị D hay anh C), để bảo đảm ổn định cho cuộc sống và học tập của 02 cháu cần để cho anh C tiếp tục nuôi con là phù hợp. Do anh C không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện của anh nên Hội đồng xét xử không xem xétvề nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với chị D.

 [4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị D và anh C trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [5] Chị Trần Thị Mỹ D phải nộp án phí ly hôn theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

 [6] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của bà Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 55, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử:

 [1] Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Mỹ D. Chị Trần Thị Mỹ D được ly hôn với anh Phạm Văn C.

 [2] Về con chung: Anh Phạm Văn C trực tiếp nuôi 02 cháu Phạm Tuấn K, sinh ngày 28/6/2002 và Phạm Thị Thảo N, sinh ngày 20/9/2004 hiện nay đang sống chung với anh C, chị Trần Thị Mỹ D không phải cấp dưỡng nuôi con do anh C không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

 [3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị D, anh C trình bày không có nên không xem xét giải quyết.

 [4] Về nghĩa vụ nộp án phí: Án phí ly hôn chị Trần Thị Mỹ D phải nộp 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 000xxxx, ngày 21/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre nên không còn phải nộp thêm.

 [5] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

 [6] Về việc thi hành bản án khi có hiệu lực pháp luật: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2018/HNGĐ-ST ngày 19/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:111/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về