TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 110/2021/DS-ST NGÀY 16/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN
Ngày 16 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 213/2020/TLST-DS, ngày 30 tháng 6 năm 2020. Về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2021/QĐXXST-DS, ngày 30 tháng 3 năm 2021.
Giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn N. Sinh năm: 1975.
Địa chỉ: Thôn 19/5, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Ông N có mặt).
2. Bị đơn: Công ty cổ phần cà phê H.
Địa chỉ: Km 17, Quốc lộ 26, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
2.1 Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Đỗ Hoàng P.
Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.
2.2 Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Phạm Đình B.
Chức vụ: Kiểm soát viên Công ty cổ phần cà phê H.
Địa chỉ: Số 65 đường T, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Theo văn bản ủy quyền số số 141/GUQ, ngày 03 tháng 7 năm 2020). Ông B có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn N, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Trần Văn N trình bày:
Vào ngày 27/8/2011 tôi có ký 02 hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê H, nay là (Công ty cổ phần cà phê H) theo hợp đồng số 1232A/2011/HĐ-GK và hợp đồng số 1232b/2011/HĐ-GK. Theo hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 1232A/2011/HĐ-GK, ngày 27/8/2011 thì tôi nhận khoán của Công ty cổ phần cà phê H thửa đất có diện tích 8.350m2, trên đất có trồng khoảng 990 cây cà phế vối, trồng năm 1994 ngoài ra Công ty còn giao thêm cho tôi diện tích bờ lô là 1.212m2, tại thửa đất số 17, tờ bản đồ số 20, địa điểm đất nhận giao khoán thuộc đội NT-3 quản lý, thuộc thôn 19/5, xã Hòa Đông, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Hai bên thống nhất xác định nguyên giá vườn cây là 45.195.708 đồng, giá trị vườn cây tại thời điểm ký hợp đồng còn lại là 28.298.358 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ (tôi N) góp 49%. Thời hạn giao khoán là 10 năm, tính từ ngày ký kết hợp đồng là ngày 27/8/2011 đến ngày 27/8/2021.
Về mức giao khoán: Định kỳ vào mùa thu hoạch tôi phải có trách nhiệm giao nộp sản lượng cà phê quả tươi cho Công ty cổ phần cà phê H hàng năm cụ thể như sau:
Niên vụ thu hoạch năm 2011 – 2015 giao nộp 2.659 kg Niên vụ thu hoạch năm 2015 – 2018 giao nộp 2.375 kg Niên vụ thu hoạch năm 2018 – 2021 giao nộp 2.090 kg Đối với hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số1232b/2011/HĐ-GK, ngày 27/8/2011 thì tôi nhận khoán của Công ty cổ phần cà phê H thửa đất có diện tích 4.000m2, trên đất có trồng khoảng 440 cây cà phê vối, trồng năm 1994 ngoài ra Công ty còn giao thêm cho tôi diện tích bờ lô là 581m2, tại thửa đất số 81, tờ bản đồ số 20, địa điểm đất nhận giao khoán thuộc đội NT-3 quản lý, thuộc thôn 19/5, xã Hòa Đông, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Hai bên thống nhất xác định nguyên giá vườn cây là 18.852.438 đồng, giá trị vườn cây tại thời điểm ký hợp đồng còn lại là 8.829.574 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ (tôi N) góp 49%. Thời hạn giao khoán là 10 năm, tính từ ngày ký kết hợp đồng là ngày 27/8/2011 đến ngày 27/8/2021.
Về mức giao khoán đối với hợp đồng này thì định kỳ vào mùa thu hoạch tôi phải có trách nhiệm giao nộp sản lượng cà phê quả tươi cho Công ty cổ phần cà phê H hàng năm cụ thể như sau:
Niên vụ thu hoạch năm 2011 – 2015 giao nộp 1.274 kg Niên vụ thu hoạch năm 2015 – 2018 giao nộp 1.138 kg Niên vụ thu hoạch năm 2018 – 2021 giao nộp 1.001 kg Chất lượng cà phê quả tươi mà tôi giao nộp cho Công ty theo từng niên vụ hàng năm phải đạt tiêu chuẩn đó là: Tỷ lệ quả chín ≥ 85%; Tỷ lệ quả vàng ≤ 12%; Tỷ lệ quả xanh ≤ 3%; Tạp chất trong sản phẩm ≤ 0,5%. Sản lượng giao nộp phải khô ráo, nếu gặp mưa Công ty sẽ tính tỷ lệ để khấu trừ.
Tổng diện tích đất tôi ký hợp đồng nhận khoán đối với Công ty cổ phần cà phê H cả hai hợp đồng nêu trên là 12.350m2.
Tôi ký hợp đồng nhận khoán với Công ty là hoàn toàn tự nguyện, sau khi ký hợp đồng mọi việc diễn ra bình thường, tôi không có ý kiến gì đối với Công ty về các nội dung trong hợp đồng. Kể từ niên vụ 2017 - 2018 tôi đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cà phê cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi hàng năm cho Công ty theo hợp đồng, niên vụ 2018 - 2019 đến nay tôi và các hộ dân nhận khoán phát hiện Công ty đã có sự gian lận trong quy trình tính toán về chi phí nhân công, số lượng cà phê quả tươi quy nhân và thuỷ lợi phí không đúng theo tỉ lệ 49% - 51% như hợp đồng giao khoán để đem hết lợi nhuận cho Công ty nên tôi chưa nộp sản lượng cà phê cho Công ty, đồng thời tôi làm đơn khởi kiện Công ty để yêu cầu Toà án xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật để buộc:
1. Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại chi phí đã gian lận trong tính toán chi phí nhân công trong thời gian 07 năm (2011- 2017) là: 86.954.753,2 đồng.
2. Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại số cà phê quả tươi đã gian lận trong thời gian 07 năm (2011- 2017) là: 24.304.000 đồng.
3. Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại số tiền thủy lợi phí trong thời gian 20 năm (1998 - 2018) là 5.100.000 đồng.
Tổng cộng tôi yêu cầu Công ty cổ phần cà phê H phải trả cho tôi số tiền là 116.358.753,2 đồng (Một trăm mười sáu triệu, ba trăm năm mươi tám nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).
Do trong đơn khởi kiện của tôi có sự nhầm lẫn nên tôi đã yêu cầu Công ty cổ phần cà phê H phải trả cho tôi tổng số tiền là 116.358.753,2 đồng, cụ thể: Tôi phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong thời gian 07 năm (2011-2017) là 86.954.753,2 đồng (Bình quân một năm Công ty gian lận 12.422.107,6 đồng/1ha); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi quy nhân cho diện tích 01ha trong thời gian 07 năm (2011-2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, với giá 8.000 đồng/1kg, quy thành tiền là 24.304.000 đồng (Bình quân một năm Công ty gian lận 434kg cà phê quả tươi, với giá 8.000 đồng/1kg, quy thành tiền là 3.472.000 đồng/1năm); Công ty đã thu sai tiền thủy lợi phí của tôi đối với phần 51% cho diện tích 01ha trong thời gian 20 năm (1998-2018) với số tiền là 5.100.000 đồng (Bình quân một năm Công ty thu sai 255.000 đồng/1ha) mà lẽ ra Công ty không được thu khoản tiền này.
Tôi làm đơn khởi kiện Công ty dựa trên mức tính bình quân của 01 héc ta được UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt vào năm 2011. Tuy 02 thửa đất tôi nhận khoán với Công ty có tổng diện tích 12.350m2 (8.350m2 + 4.000m2 =12.350m2) nhưng tôi chỉ khởi kiện đối với phần diện tích 01 héc ta, diện tích đất còn lại không đáng kể nên tôi không khởi kiện. Về thuỷ lợi phí là do tôi tự đào giếng tưới nước cho toàn bộ diện tích đất trồng cà phê mà tôi nhận khoán với Công ty chứ không phải tôi tưới nước kênh mương, hồ đập của Công ty như trong đơn khởi kiện của tôi đã nêu. Tôi tự đào giếng tưới nước thì mỗi năm Công ty phải thanh toán lại cho tôi số tiền tôi bỏ ra chi phí cho việc tưới nước của phần 51% là 918.000 đồng/1ha.
Tại phiên tòa hôm nay tôi xin thay đổi và rút một phần yêu cầu khởi kiện của tôi đối với tổng số tiền 111.258.753,2 đồng (Trong đó tiền chi phí nhân công là 86.954.753,2 đồng, khoản tiền về số lượng cà phê quả tươi quy nhân và quy thành tiền là 24.304.000 đồng). Tôi không yêu cầu Hội đồng xét xử cập giải quyết.
Về khoản tiền thủy lợi phí: Tôi chỉ yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết để buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại cho tôi số tiền thủy lợi phí đào giếng tưới nước trong thời gian 05 năm (2014-2018) là 4.590.000 đồng (918.000 đồng x 5 năm = 4.590.000 đồng). Tôi xin rút một phần yêu cầu khởi kiện của tôi về khoản tiền thủy lợi phí với số tiền 510.000 đồng.
Trong quá trình nhận khoán giữa tôi và Công ty không có thoả thuận nào về việc tôi tự đào giếng tưới nước thì hàng năm Công ty phải thanh toán lại cho tôi số tiền chi phí tưới nước của phần 51% mỗi năm là 918.000 đồng/1ha, vì vậy tôi không có chứng cứ nào để chứng minh về khoản tiền thuỷ lợi phí đối với số tiền 4.590.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn Công ty cổ phần cà phê H là ông Phạm Đình B trình bày:
Công ty cổ phần cà phê H (Trước đây là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê H) thừa nhận việc Công ty với ông Trần Văn N có ký kết 02 hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên theo hợp đồng số 1232A/2011/HĐ-GK và hợp đồng số 1232b/2011/HĐ-GK, ngày 27/8/2011. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018, ông N đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho Công ty theo hợp đồng. Tuy nhiên, đến niên vụ thu hoạch cà phê 2018-2019 cho đến nay ông N đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi cho Công ty theo đúng cam kết trong hợp đồng, là vi phạm hợp đồng nhưng Công ty chưa tiến hành khởi kiện.
Việc ông Trần Văn N yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại số tiền thủy lợi phí đào giếng tưới nước trong thời gian 05 năm (2014-2018) với số tiền 4.590.000 đồng thì Công ty cổ phần cà phê H không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N, vì: Công đoạn tưới nước là một công đoạn chủ yếu của việc sản xuất kinh doanh cây cà phê, do đó, về công lao động đã được tính vào chi phí sản xuất trên 1ha cà phê. Tại trang 9, 10 của Phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt đã ghi rõ các khoản mục trong cấu thành giá thành sản xuất “Tiền khấu hao hồ đập kênh mương là 500.000 đồng/ha/năm, trong đó phần 51% là 255.000 đồng/ha/năm” vào giá thành (Khấu trừ ăn chia sản phẩm). Đồng thời, tại mục 1 Điều 1 của hợp đồng được ký kết giữa nguyên đơn với Công ty thì “Bên A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê...”. Như vậy, mặc dù trong hợp đồng giao khoán hai bên chỉ đề cập đối với hệ thống hồ đập, kênh mương không đề cập đến việc tưới giếng, nhưng thực chất Công ty đã trả 255.000 đồng/ha/năm là hoàn toàn công bằng giữa người tưới mương và tưới giếng. Mặt khác, theo thông báo số 61/UB-VPUBND ngày 08/4/2019 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk có nêu: “…việc đào giếng tưới và sử dụng giếng tưới cho vườn cây nhận khoán là của người dân, nhà nước không chi trả”. Do đó, Công ty không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nêu trên của ông N.
Qua quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông Trần Văn N vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu khởi kiện của mình về việc: Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại số tiền thủy lợi phí đào giếng tưới nước trong thời gian 05 năm (2014-2018) với số tiền 4.590.000 đồng.
Người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn Công ty cổ phần cà phê H là ông Phạm Đình B không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của ông N, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và các đương sự đã thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự năm 2005; Điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003. Bác một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N về việc: Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại tiền thủy lợi phí đào giếng tưới nước trong thời gian 05 năm (2014-2018) là: 4.590.000 đồng. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N về việc: Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả số tiền 111.768.753,2 đồng (Một trăm mười một triệu, bảy trăm sáu mươi tám nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).
Ông Trần Văn N được quyền khởi kiện lại đối với số tiền trên theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đơn khởi kiện của ông Trần Văn N đề ngày 08/6/2020 Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng giao khoán” được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Công ty cổ phần cà phê H có trụ sở và địa chỉ tại xã Hòa Đông, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Theo các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn, bị đơn cung cấp và được các bên thừa nhận, Hội đồng xét xử nhận định: Vào ngày 27/8/2011 ông Trần Văn N và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê H, nay là (Công ty cổ phần cà phê H) có ký 02 hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên, theo hợp đồng số1232A/2011/HĐ-GK và hợp đồng số 1232b/2011/HĐ-GK, đây là hợp đồng song vụ có thời hạn. Việc giao kết hợp đồng giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, hình thức và nội dung hợp đồng đúng theo quy định của pháp luật. Kể từ khi ký kết hợp đồng giao khoán cho đến hết niên vụ 2017-2018 ông N đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cà phê cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho Công ty theo hợp đồng, không có tranh chấp và đã được các bên đương sự thừa nhận. Do đó, xác định đây là chứng cứ không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Xét về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn N về việc:
Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại số tiền thủy lợi phí đào giếng tưới nước trong thời gian 05 năm (2014-2018) với số tiền 4.590.000 đồng, Hội đồng xét xử nhận định: Tại Điều 1, 2 của hợp đồng khoán gọn có nêu: “Bên A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ, thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê”; “Khi vào vụ tưới nước cho cà phê, Công ty mở nước cho bên B tưới với diện tích tưới mương. Diện tích tưới mương Công ty sẽ thu tiền khấu hao hồ đập kênh mương theo đơn giá quy định tại hội nghị người lao động hằng năm”. Tại trang 9, 10 Bảng phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt đã ghi rõ, trường hợp gia đình tưới nước từ kênh mương của Công ty thì phải trả lại tiền khấu hao kênh mương, thủy lợi cho Công ty phần 49% là 245.000đồng/ha/năm, trong phần tính toán chi phí đầu tư để khấu trừ Công ty đã trả 255.000đồng/ha/năm (Khấu hao kênh mương phần 51%) cho người nhận khoán. Như vậy, căn cứ vào bảng phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk phê duyệt và hợp đồng mà ông N đã ký với Công ty thì, khi ký kết hợp đồng hai bên không đề cập đến thủy lợi phí đào giếng tưới nước, các bên chỉ đề cập tới khấu hao hồ đập, kênh mương. Đồng thời, tại Thông báo số 61/UB-VPUBND, ngày 08/4/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk có nêu: “…việc đào giếng tưới và sử dụng giếng tưới cho vườn cây nhận khoán là của người dân, nhà nước không chi trả”. Mặt khác, tại thời điểm ký kết và trong quá trình thực hiện hợp đồng thì ông N không có ý kiến gì với Công ty về việc tưới giếng đối với vườn cây nhận khoán, ông N không có bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện về khoản tiền thủy lợi phí như đã nêu trên. Do đó, căn cứ theo quy định tại các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503 và 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 và các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP, ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003; Không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện trên của nguyên đơn ông Trần Văn N.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Trần Văn N xin rút một phần yêu cầu khởi kiện khởi kiện buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại tiền chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong thời gian 07 năm (2011-2017) với số tiền 86.954.753,2 đồng, số lượng cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha trong thời gian 07 năm (2011-2017) với số tiền 24.304.000 đồng và một phần tiền thủy lợi phí cho diện tích 01ha trong thời gian 20 năm (1998-2018) với số tiền 510.000 đồng. Tổng cộng là 111.768.753,2 đồng. Xét thấy, việc nguyên đơn ông Trần Văn N xin rút một phần yêu cầu khởi kiện của là hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông N.
Ông Trần Văn N được quyền khởi kiện lại đối với số tiền trên theo quy định của pháp luật.
[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn N đối với số tiền 4.590.000 đồng không được chấp nhận nên ông N phải chịu 300.000 đồng, tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền 2.908.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà ông Trần Văn N đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Theo biên lai thu số AA/2019/0009836, ngày 30/6/2020.
Hoàn trả lại cho ông Trần Văn N số tiền 2.608.000 đồng (Hai triệu, sáu trăm lẽ tám nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí còn lại đã nộp.
Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ quan điểm của Viện kiểm sát.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 235, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP, ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN, ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003.
- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử :
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N về việc: Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại tiền thủy lợi phí về chi phí đào giếng tưới nước cho diện tích 1ha đất giao khoán trong thời gian 05 năm (2014-2018) với số tiền 4.590.000 đồng (Bốn triệu, năm trăm chín mươi nghìn đồng).
- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N về việc: Buộc Công ty cổ phần cà phê H phải trả lại tiền chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong thời gian 07 năm (2011-2017) với số tiền 86.954.753,2 đồng, số lượng cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha trong thời gian 07 năm (2011-2017) với số tiền 24.304.000 đồng và một phần tiền thủy lợi phí cho diện tích 01ha trong thời gian 20 năm (1998-2018) với số tiền 510.000 đồng. Tổng cộng là 111.768.753,2 đồng (Một trăm mười một triệu, bảy trăm sáu mươi tám nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).
Ông Trần Văn N được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.
- Về án phí : Nguyên đơn ông Trần Văn N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền 2.908.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà ông Trần Văn N đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Theo biên lai thu số AA/2019/0009836, ngày 30/6/2020.
Hoàn trả lại cho ông Trần Văn N số tiền 2.608.000 đồng (Hai triệu, sáu trăm lẽ tám nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí còn lại đã nộp.
- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông Trần Văn N, bị đơn Công ty cổ phần cà phê H, người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn là ông Phạm Đình B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 110/2021/DS-ST ngày 16/04/2021 về tranh chấp hợp đồng giao khoán
Số hiệu: | 110/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về