TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 110/2018/HS-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong các ngày 05, 12 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số: 27/2018/HSST-QĐ ngày 06 tháng 9 năm 2018 và đối với bị cáo:
Dương Thanh P, sinh năm 1994, tại thành phố L, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Thanh Ph và bà Lê Thị Bạch H; chưa có vợ, con;
Tiền án: Ngày 27/9/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/7/2015;
Tiền sự: chưa;
Nhân thân: Ngày 13/01/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng; chấp hành quyết định này đến ngày 23/5/2018 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên bắt tạm giam để điều tra.
Bị bắt tạm giam từ ngày 23/5/2018 cho đến nay; có mặt.
Bị hại: Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1989; địa chỉ: số B, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ông Nguyễn Tấn T1, sinh năm 1982; địa chỉ: số A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; vắng mặt.
- Ông Dương Thanh Ph, sinh năm 1973; địa chỉ: số A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; có mặt.
- Bà Dương Thị T; địa chỉ: số A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Nguyễn Tấn T và ông Nguyễn Tấn T1 cùng cư trú tại số B, khóm B, phường B, thành phố L là hàng xóm với Dương Thanh P. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/11/2016, ông T1 đang nằm trên võng, ông T đang sửa điện thoại trước thềm nhà thì bị P sau khi sử dụng ma túy đá cầm con dao bằng kim loại màu trắng dài 50cm (lưỡi dao dài 30cm), mũi nhọn sang chém ông T1 01 nhát trúng vào cẳng chân phải, chém ông T 01 nhát vào cổ bàn tay trái gây thương tích rồi đem dao về nhà cất giấu. Sau đó, ông T1, ông T được người thân đưa đến Bệnh viện Đa khoa trung tâm A điều trị thương tích. Do bị thương tích nhẹ, khâu 02 mũi ở cẳng chân phải nên ông T1 không nhập viện. Riêng ông T nhập viện điều trị đến ngày 05/12/2016 ra viện.
Ngày 29/11/2016, Dương Thanh P giao nộp cho Công an phường B 01 con dao dài 50cm (lưỡi dao dài 30cm), cán bằng kim loại màu trắng.
Ngày 09/12/2016, ông Nguyễn Tấn T có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Riêng ông Nguyễn Tấn T1 không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và từ chối giám định tỷ lệ thương tật.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 71/17/TgT ngày 08/3/2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh A xác định: Ông Nguyễn Tấn T bị sẹo mặt trước cổ tay - lòng bàn tay trái kích thước 08 x 0.7cm, đứt động mạch trụ, đứt thần kinh trụ, đã phẫu thuật cột động mạch trụ và khâu bao thần kinh trụ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là: 19% (mười chín phần trăm).
Tại Cáo trạng số 92/CT-VKS ngày 03 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên đã truy tố bị cáo Dương Thanh P về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa,
- Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.
- Bị hại ông Nguyễn Tấn T và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Dương Thanh Ph cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra. Bên cạnh đó, ông T còn khai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.
- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến sức khỏe của bị hại mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đang có 01 tiền án, chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”. Vì vậy, đề nghị xử phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi sự việc xảy ra, cha của bị cáo đã bồi thường cho bị hại với số tiền 5.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại rút yêu cầu bồi thường tại phiên tòa nên đề nghị không đề cập giải quyết.
Về biện pháp tư pháp, đề nghị áp dụng các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy 01 con dao bị thu giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Dương Thanh P khai nhận, khoảng 22 giờ ngày 28/11/2016, bị cáo sử dụng ma túy đá tại nhà. Đến khoảng11 giờ ngày 29/11/2016, khi đang ngủ tại nhà, bị cáo nghe tiếng nói chuyện lớn phát ra từ vách nhà bên cạnh. Bị cáo lấy 01 con dao tự chế ở nhà bếp, cần trên tay phải đi sang nhà của các ông Nguyễn Tấn T1, Nguyễn Tấn T chém vào những người có mặt ở đây rồi bị cáo đi về nhà ngủ. Bị cáo thừa nhận thương tích của ông T1, ông T là do bị cáo dùng dao gây ra.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 29/11/2018 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên lập; lời khai của ông Nguyễn Tấn T, ông Nguyễn Tấn T1 về việc bị cáo dùng dao chém 01 nhát trúng cẳng chân phải của ông T1; chém 01 nhát trúng cổ bàn tay trái của ông T gây thương tích. Sự việc xảy ra vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 19/11/2016 khi ông T1 đang nằm trên võng; ông T đang sửa điện thoại trước thềm nhà; lời khai của ông Dương Thanh Ph về việc nghe mọi người trong xóm la lên nên biết bị cáo gây thương tích cho ông T, ông T1 rồi cùng người khác đưa ông T, ông T1 đến bệnh viện.
Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ là 01 con dao dài 50cm (lưỡi dao dài 30cm), cán bằng kim loại màu trắng; biên bản xác định thương của ông Nguyễn Tấn T ngày 29/11/2016, bản ảnh dấu vết trên thân thể bị hại do Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Xuyên lập và bệnh án khoa ngoại của Nguyễn Tấn T do Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang cung cấp. Theo đó, ông T có vết thương ở cổ bàn tay trái.
Từ các chứng cứ trên, có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi gây thương tích cho bị hại.
Cây dao tự chế có lưỡi dao màu trắng, cán bằng inox máu trắng mà bị cáo dùng gây thương tích cho bị hại là hung khí nguy hiểm. Đồng thời, theo Kết luận giám định pháp y về thương tích số 71/17/TgT ngày 08/3/2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh An Giang, xác định ông Nguyễn Tấn T bị sẹo mặt trước cổ tay - lòng bàn tay trái kích thước 08 x 0.7cm, đứt động mạch trụ, đứt thần kinh trụ, đã phẫu thuật cột động mạch trụ và khâu bao thần kinh trụ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 19%.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng lại sử dụng ma túy dẫn đến bị ảo giác, nghĩ người khác chửi mình nên thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.
Bên cạnh đó, về nguyên nhân phạm tội, bị cáo, bị hại, ông T1 khai, giữa bị cáo với ông T không có mâu thuẫn. Chỉ vì nghe người khác nói lớn tiếng bị cáo đã thực hiện hành vi gây thương tích cho bị hại. Cho nên, việc bị cáo gây thương tích cho bị hại “có tính chất côn đồ”.
Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung tăng nặng “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ” được quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.
Về thương tích của ông Nguyễn Tấn T, ngoài gây thương tích cho bị hại, bị cáo còn có hành vi gây thương tích cho ông T1. Tuy nhiên, ông T1 từ chối giám định và không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Vì vậy, không xem xét trách nhiệm hình sự bị cáo đối với hành vi gây thương tích cho ông T1.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, sức khỏe là vốn quý của mỗi cá nhân và là nền tảng để mỗi người lao động, phát triển. Chính vì vậy, quyền được an toàn về sức khỏe của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đối với những người xâm phạm đến sức khỏe người khác một cách trái pháp luật, đáp ứng quy định của pháp luật hình sự sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất, là hình phạt.
Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến sức khoẻ của người khác mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bên cạnh đó, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đang có tiền án do bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” vào ngày 27/9/2013; chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/7/2015. Cho nên, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Do đó, cần xử phạt nghiêm bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Sau khi sự việc xảy ra, người thân của bị cáo đã tự bồi thường cho bị hại với số tiền 5.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm năm 2015. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.
[5] Về trách nhiệm dân sự, trong giai đoạn điều tra, ông T yêu cầu bị cáo bồi thường khoản mất thu nhập trong thời gian điều trị bệnh với số tiền 4.500.000 đồng. Tại phiên tòa, ông T rút lại yêu cầu bồi thường khoản mất thu nhập và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản thiệt hại về sức khỏa nào khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết vấn đề dân sự trong cùng vụ án.
[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp, con dao cán bằng kim loại màu trắng bị thu giữ được bị cáo sử dụng gây thương tích cho bị hại là công cụ phạm tội. Do con dao này không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Dương Thanh P phạm tội “Cố ý gây thương tích”;
Xử phạt: Dương Thanh P: 02 (hai) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 23/5/2018 (ngày hai mươi ba, tháng năm, năm hai nghìn không trăm mười tám).
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm a khoản 1Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) cây dao tự chế dài 50cm (lưỡi dao màu trắng), cán bằng inox máu trắng được quấn băng keo màu đen.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L).
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Dương Thanh P phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, ông Dương Thanh Ph có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Tấn T, bà Dương Thị T, ông Nguyễn Tấn T1 là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 110/2018/HS-ST ngày 12/10/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 110/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về