TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 110/2018/HS-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ VÀ CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 101/2018/TLST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:
Phạm Đình H, sinh năm: 1993, tại: Bình Định; Hộ khẩu thường trú: thôn K, xã X, huyện N, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm D và bà Võ Thị Ngọc L; Chưa có vợ; tiền án: không; tiền sự: không; ngày: 13/12/2017; (Có mặt).
Bị hại: - Anh Võ Cao Thiên A, sinh năm 1984; Trú tại: số 13/2 đường T, phường A, thị xã K, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: số 102 đường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 30 ngày 09/12/2017, Phạm Đình H cùng Võ Cao Thiên A và Nam (chưa xác định được lai lịch) cùng sử dụng ma túy tại Khách sạn Phượng Hoàng, địa chỉ 210/10 đường M, phường N, Quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Đến khoảng 06 giờ sáng ngày 10/12/2017 H thức dậy phát hiện mất một đồng hồ đeo tay hiệu Casio, trong phòng chỉ còn H và Nam, không thấy A. H nghi ngờ A lấy đồng hồ nên đã hẹn gặp A tại Quán cà phê Du Miên, địa chỉ: số 7 Phan Văn Trị, phường 10, quận Gò Vấp. Tại đây, trong lúc nói chuyện, H dùng tay tát vào mặt A làm A ngã xuống sàn nhà, rồi H tiếp tục dùng tay đấm vào mặt A, dùng chân đạp vào đầu A để giật chiếc điện thoại hiệu Iphone 7 Plus. H bắt A phải đi cùng H đem điện thoại hiệu Iphone 7 Plus của A đi cầm để đền bù đồng hồ H bị mất trước đó. Sau đó, H gọi điện thoại cho Dũng (chưa rõ lai lịch) đến chở H và A đến Tiệm cầm đồ Sơn, địa chỉ: 47/10B đường T, phường M, quận Gò Vấp (nơi mà H đã cầm đồ trước đó) cầm điện thoại của A. Tại đây, H nói với anh Sơn cầm chiếc điện thoại này rồi H đưa điện thoại lại cho A, A đưa điện thoại cho anh Sơn, anh Sơn kiểm tra điện thoại và yêu cầu A cung cấp mật khẩu. Anh Sơn kiểm tra xong đồng ý cầm số tiền 10.000.000 đồng nhưng H yêu cầu cầm 12.500.000 đồng thì A năn nỉ anh Sơn ghi phiếu 12.500.000 đồng. Anh Sơn đồng ý và đưa trước cho Huy số tiền 10.000.000 đồng còn phiếu cầm đồ đưa cho A. Khoảng hơn 01 giờ sau A quay lại chuộc chiếc điện thoại Iphone 7 plus với số tiền 12.500.000 đồng và đóng phí 100.000 đồng.
Đến 15 giờ ngày 10/12/2017 H gọi điện thoại cho anh Sơn (chủ tiệm cầm đồ) thì anh Sơn cho biết A đã đến chuộc điện thoại nói còn dư 2.500.000 đồng nên H đến chuộc lại chiếc xe Honda 67 biển số 57-255FS (của H đã cầm trước đó 3 ngày) và trừ sang số tiền 2.500.000đ còn lại trong hợp đồng cầm điện thoại của A.
Khoảng 09 giờ ngày 11/12/2017, H gọi điện thoại yêu cầu A đưa thêm cho H số tiền 1.500.000đ để trả tiền khách sạn và sử dụng mua ma túy chung vào ngày 09/12/2017 thì A đồng ý và báo Công an phường 10, quận Gò Vấp. Đến 16 giờ ngày 12/12/2017, H và A gặp nhau tại Quán cà phê Du Miên. Tại đây, A yêu cầu H ghi giấy đã nhận số tiền từ trước đến nay của A nhưng Huy không đồng ý thì Công an phường 10, quận Gò Vấp đã đưa H về trụ sở để làm việc. Qua kiểm tra Công an phường 10, quận Gò Vấp phát hiện trong ba lô của H có 02 túi nylông chứa tinh thể rắn không màu (H khai là ma túy). Công an phường 10 chuyển hồ sơ và đối tượng H đến Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp để điều tra theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Đình H khai nhận toàn bộ hành vi trên và đã dùng số tiền 10.000.000 đồng chiếm đoạt được của A đem đi chuộc điện thoại di động hiệu Samsung C9 Pro đã cầm tại tiệm cầm đồ Sơn trước đó với giá là 4.000.000đ rồi sau đó bỏ túi quần và rớt trên đường lúc nào không biết. Huy dùng 2.400.000đ mua ma túy ở quận Bình Tân, tiêu xài hết 2.600.000đ, còn lại 1.000.000đ.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus. Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 116/KL ngày 07/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận: Giá trị điện thoại Iphone 7 plus số imei 353815086544511, hàng chính hãng, đã qua sử dụng theo giá thị trường ngày 10/12/2017 là 9.767.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại di động cho người bị hại là Võ Cao Thiên A
- 02 túi ni lông chứa tinh thể rắn không màu. Tại bản kết luận giám định số 127/KLGĐ-H ngày 26/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an phố Hồ Chí Minh kết luận: tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Đình H và hình dấu Công an phường 10, quận Gò Vấp gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,5624gram (hai phẩy năm sáu hai bốn gam), loại Methamphetamine.
- 01 xe máy hiệu Honda 67 biển số 57-255FS, số máy: HD1P53FMH- Y0007088, số khung: CL50-160179. Qua xác minh tại Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Hồ Chí Minh không xác định được nguồn gốc xe. H khai mua xe này trên trang mạng “Chotot” theo dạng xe không giấy tờ để làm phương tiện đi lại. Tại bản kết luận giám định số 1062/KLGĐ-X(D9) ngày 10/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: số khung, số máy nêu trên không thay đổi.
- Số tiền 1.000.000 đồng tiền NHNN Việt Nam (H khai là tiền còn lại trong số tiền 10.000.000 đồng đã chiếm đoạt của A).
- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vega màu đen – trắng, có số imei: 355343050700512 bị bể màn hình (thu giữ của H).
Tại bản cáo trạng số 111/CTr-VKS, ngày 24/5/2018 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Phạm Đình H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khỏan 1 Điều 135 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sữa đổi bổ sung năm 2009.
Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung 2009;
- Xử phạt bị cáo Phạm Đình H từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” tổng hợp hình phạt đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm 6 tháng đến 03 năm 6 tháng tù.
- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.
Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy thu giữ,
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe gắn máy hiệu Honda 67 biển số 57- 255FS, số máy: HD1P53FMH-Y0007088, số khung: CL50-160179, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vega màu đen – trắng, có số imei: 355343050700512 bị bể màn hình và 1.000.000 đồng tiền NHNN Việt Nam.
- Buộc bị cáo bồi thường theo yêu cầu của bị hại.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
[2] Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo mặc dù hành vi của bị cáo thực hiện trước 0 giờ ngày 01/01/2018 tuy nhiên thực hiện theo tinh thần của Nghị Quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, và Công văn số 04/TANDTC-PC, ngày 09/01/2018. Đối chiếu mức hình phạt của Bộ luật hình sựnăm 1999 với Bộ luật hình sự 2015 thì mức hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi cho bị cáo. Tại Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tại khỏan 1 Điều 194 người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Còn tại khỏan 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 quy định người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thì bị phạt tù 01 năm đến 05 năm. Như vậy Đối chiếu với Điều luật của hai Bộ luật hình sự thì mức hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 là có lợi cho bị cáo nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét cho các bị cáo khi lượng hình.
[3] Đối với hành vi Cưỡng Đoạt tài sản của bị cáo do hành vi của bị cáo thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 01/01/2018 nên thực hiện theo tinh thần của Nghị Quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 để xử phạt bị cáo.
Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Phạm Đình H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khỏan 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Ngoài ra bị cáo bằng thủ đoạn đe dọa và dùng vũ lực đối với người bị hại buộc bị hại phải cầm điện thoại để lấy tiền. Hành vi của bị cáo tạo cho bị hại sự sợ hãi, ảnh hưởng về tinh thần sức khỏe và ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của bị hại. Chỉ vì muốn có tiền tiêu xài bị cáo giữa ban ngày, nơi công cộng đã thực hiện hành vi phạm tội rất táo bạo và liều lĩnh, bất chấp hậu quả xảy ra, thể hiện ý thức bị cáo rất xem thường pháp luật. Do đó, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật cần thiết phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với tội lỗi của bị cáo đã thực hiện, nhằm giúp cho bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình để cải tạo thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác, đồng thời cũng nhằm phòng ngừa tội phạm chung.
Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma túy…là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập.
[5] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
[6] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 và khỏan 5 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 được sữa đổi bổ sung năm 2009 Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt cho bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự :
Tại phiên toà hôm nay bị hại vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện anh Võ Cao Thiên A yêu cầu bị cáo bồi thường lại số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt của anh là 12.500.000 đồng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của người bị hại. Hội đồng xét xử nhận thấy đây là yêu cầu và là sự thỏa thuận tự nguyện không trái pháp luật nên ghi nhận.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 02 túi ni lông chứa tinh thể rắn không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Đình H và hình dấu Công an phường 10, quận Gò Vấp gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,5624gram (hai phẩy năm sáu hai bốn gam), loại Methamphetamine. là vật nhà nước cấm lưu hành và sử dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 chiếc xe gắn máy hiệu Honda 67 biển số 57-255FS, số máy: HD1P53FMH-Y0007088, số khung: CL50-160179. Qua xác minh tại Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Hồ Chí Minh không xác định được nguồn gốc xe. H khai mua xe này trên trang mạng “Chotot” theo dạng xe không giấy tờ để làm phương tiện đi lại. Tại bản kết luận giám định số 1062/KLGĐ-X(D9) ngày 10/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: số khung, số máy nêu trên không thay đổi. Cơ quan điều tra đã cho đăng báo tìm chủ sỡ hữu nhưng đến nay không ai đến nhận, Hội đồng xét xử nhận thấy xe không có nguồn gốc rõ ràng và đã quá thời hạn quy định của pháp luật nên quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Đối với số tiền 1.000.000 đồng tiền NHNN Việt Nam (H khai là tiền còn lại trong số tiền 10.000.000 đồng đã chiếm đoạt của Ân) là tiền thu lợi bất chính Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.
- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vega màu đen – trắng, có số imei: 355343050700512 bị bể màn hình (thu giữ của H) là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.
[9] Đối với hành vi cầm đồ của anh Võ Văn Sơn khi cầm anh không biết đây là tài sản mà H phạm tội mà có nên không có cơ sở xử lý đối với anh Sơn.
[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Phạm Đình H Cơ quan điều tra chưa xác minh được lai lịch nên chưa có căn cứ xử lý, khi nào xác định được xử lý sau.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phạm Đình H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Cưỡng đoạt tài sản”;
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 55; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khỏan 1 Điều 135; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung 2009;
Xử phạt bị cáo Phạm Đình H 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 13/12/2017.
Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói được niêm phong có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra bên trong có tinh thể không màu có khối lượng 2,1626g là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vega màu đen – trắng, có số imei: 355343050700512 bị bể màn hình. 01 xe máy hiệu Honda 67 biển số 57-255FS, số máy: HD1P53FMH-Y0007088, số khung: CL50-160179 và 1.000.000 (một triệu) đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt nam.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 105/PNK, ngày 08/5/2018 và số 26/PNK, ngày 06/02/2018 của Công an quận Gò Vấp).
Buộc bị cáo Phạm Đình H có Trách nhiệm bồi thường số tiền 12.500.000 (Mười hai triệu năm trăm ngàn) đồng cho anh Võ Cao Thiên A ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Áp dụng khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Dân sự;
Kể từ ngày anh Võ Cao Thiên A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không thi hành khỏan tiền bồi thường nêu trên, thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được thực hiện theo quy định tại khỏan 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự. Việc thi hành án được thực hiện tại cơ quan Thi hành án có thẩm quyền.
Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 625.000 (sáu trăm hai mươi lăm ngàn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.
Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 110/2018/HS-ST ngày 10/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 110/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về