Bản án 110/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 110/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:326/2018/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 7 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2018/QĐXXST - HNGĐ, ngày 20 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 68/2018/QĐST - HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Ấp C, xã V, huyện C1, tỉnh Trà Vinh - Có mặt

Bị đơn: Chị Phạm Thị Hồng Đ, sinh năm 1977; Nơi đăng ký HKTT: Ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long - Vắng mặt không lý do

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16 tháng 7 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụán cũng như tại phiên tòa nguyên đơn anh P trình bày:

Anh P và chị Đ kết hôn vào năm 2011, hôn nhân do quen biết, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện C1, tỉnh Trà Vinh. Thời gian vợ chồng sống hạnh phúc với nhau được khoảng 03 năm thì vợ chồng lại phát sinh mâu thuẫn và ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay không về đoàn tụ được.

Nguyên nhân mâu thuẫn theo anh P trình bày là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự thông cảm với nhau nên thường xuyên cự cãi làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Khi cưới về thì anh P, chị Đ cùng đi làm ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng công việc không ổn định, thu nhập thấp nên vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn về kinh tế cự cãi về tiền bạc làm ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng. Đến tháng 03/2017 vợ chồng cự cãi gay gắt hơn nên anh P dẫn con về quê ở Trà Vinh sống, đến tháng 07/2018 thì chị Đ về nhà anh P dẫn con đi cho đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng không giải quyết mâu thuẫn hàn gắn lại với nhau được.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Tấn P1, sinh ngày 03/10/2012. Hiện nay đang sống với chị Đ.

Về tài sản chung: Anh P trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh P trình bày vợ chồng không có nợ ai và ngược lại không có ai nợ vợ chồng, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Thanh P yêu cầu được ly hôn với chị Phạm Thị Hồng Đ; Về con chung: Anh P đồng ý giao cháu Nguyễn Tấn P, sinh ngày03/10/2012 cho chị Đ tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng; Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra không có yêu cầu gì thêm.

Bị đơn chị Phạm Thị Hồng Đ đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cũng như ngày mở phiên tòa xét xử nhưng vẫn vắng mặt không lý do đồng thời không có văn bản ý kiến gì phản bác hay yêu cầu phản tố gì khác đối với yêu cầu của anh Phong.

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt, nguyên đơn không có yêu cầu gì thêm và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Xét bị đơn chị Phạm Thị Hồng Đ đã được Tòa án tống đạt thông báo việc thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về ngày xét xử vụ án cho chị Đ đúng theo quy định pháp luật nhưng chị Đ không đến và vắng mặt nhiều lần không lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về nội dụng vụ án: Anh Nguyễn Thanh P yêu cầu được ly hôn với chị Phạm Thị Hồng Đ; Về con chung: Anh P đồng ý giao cháu Nguyễn Tấn P1, sinh ngày 03/10/2012 cho chị Đ tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng; Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn chị Phạm Thị Hồng Đ vắng mặt và không có văn bản ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của anh P.

 [2.1] Xét về hôn nhân: Anh P và chị Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện C1, tỉnh Trà Vinh là đúng theo quy định pháp luật nên việc anh P yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Đ là có cơ sở xem xét.

Anh P trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau, không có tiếng nói chung, vợ chồng không có sự thông cảm cùng nhau nên thường xuyên cự cãi làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Khi cưới về thì anh P, chị Đ cùng đi làm ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng công việc không ổn định thu nhập thấp nên vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn về kinh tế cự cãi về tiền bạc làm ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng. Đến tháng 03/2017 vợ chồng cự cãi gay gắt hơn nên anh P đã về quê ở Trà Vinh sống. Trong thời gian ly thân vợ chồng cũng có liên lạc qua điện thoại nhưng không giải quyết được mâu thuẫn. Hiện nay anh P yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tam Bình giải quyết ly hôn thì chị Đ có biết nhưng vẫn không chịu về để vợ chồng gặp mặt giải quyết mâu thuẫn. Hiện nay anh P xác định tình cảm vợ chồng đối với chị Đ không còn nữa và vẫn giữ yêu cầu ly hôn với chị Đ.

Tại phiên tòa hôm nay chị Đ vắng mặt, trong quá trình giải quyết vụ án chị Đ đã được Tòa án thông báo việc thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về ngày xét xử vụ án hợp lệ nhưng theo quy định nhưng chị Đ vẫn vắng mặt không lý do và không cung cấp văn bản ý kiến, yêu cầu phản bác gì đối với yêu cầu của anh P thì xem như đã tự mình từ bỏ quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ. Tại phiên tòa hôm nay anh P xác định tình cảm vợ chồng dành cho chị Đ không còn nữa. Từ đó, cho thấy tình trạng hôn nhân giữa anh P và chị Đ đã đến mức trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh P là đúng theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

 [2.2] Xét về con chung: Là Nguyễn Tấn P1, sinh ngày 03/10/2012, hiện nay đang do chị Đ chăm sóc nuôi dưỡng. Tại phiên tòa hôm nay anh P tự nguyện giao cháu Tấn P1 cho chị Đ tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng cho con anh P không có ý kiến và yêu cầu. Tại phiên tòa hôm nay chị Đ vắng mặt, trong quá trình giải quyết vụ án chị Đ đã được Tòa án thông báo về ý kiến và yêu cầu khởi kiện của anh P nhưng chị Đ không đến và không cung cấp văn bản ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu của anh P thì xem như đã tự mình từ bỏ quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ.

Do đó, Hội đồng xét xử xét ghi nhận sự tự nguyện của anh P giao cháu Nguyễn Tấn P cho chị Phạm Thị Hồng Đ tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Về con riêng, con nuôi không có và không yêu cầu nên Tòa án không đặt vấn đề xem xét.

Về cấp dưỡng: Do chị Đ vắng mặt, anh P không có ý kiến và yêu cầu trong vấn đề này nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Nguyễn Văn P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

 [2.3] Xét về tài sản chung: Do chị Đ vắng mặt, anh P không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

 [2.4] Xét về nợ chung: Do chị Đ vắng mặt, anh P trình bày trong thời gian sống chung vợ chồng không có nợ ai hay ngược lại không có ai nợ vợ chồng và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

 [3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn P phải nộp số tiền 300.000đ(Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí về việc yêu cầu ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 0011100, ngày 18 tháng 7 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là anh Nguyễn Văn Phong;

- Về hôn nhân: Cho anh Nguyễn Văn P được ly hôn với chị Phạm Thị Hồng Đ;

- Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của anh P giao cháu Nguyễn Tấn P1, sinh ngày 03/10/2012 cho chị Đ tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Về con riêng, con nuôi không có và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt vấn đề xem xét.

Về cấp dưỡng: Do chị Đ vắng mặt, anh P không có ý kiến và yêu cầu trong vấn đề này nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Nguyễn Văn P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Xét về tài sản chung: Do chị Đ vắng mặt, anh P không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

- Xét về nợ chung: Do chị Đ vắng mặt, anh P trình bày trong thời gian sống chung vợ chồng không có nợ ai hay ngược lại không có ai nợ vợ chồng và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

2/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn P phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí về việc yêu cầu ly hôn, được khấu trừ vào số tiền300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 0011100, ngày 18 tháng 7 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3/ Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt nguyên đơn được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được giao hoặc được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:110/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về