Bản án 110/2017/HSST ngày 24/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 110/2017/HSST NGÀY 24/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 24/05/2018 tại trụ sở Tòa án nhân Dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 111/2018/HSST ngày 18/04/2018 đối với bị cáo:

Đỗ Văn L; sinh năm 1985; Nơi ĐHKTT: khu phố T, phường C, Thị xã T, tỉnh Bắc Ninh; Dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam, Tôn giáo: Không; Học vấn; 12/12. Bố: Đỗ Văn H, sinh năm 1964; Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1964; Vợ: Vương Ngọc H sinh năm 1999, Con: có 1 con sinh năm 2017. 

Nhân thân: Ngày 22/03/2012, Tòa án nhân Dân thị xã Từ Sơn xử phạt 26 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian thử thách là 49 tháng 02 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. L nộp khoản án phí HSST ngày 22/05/2018. Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 21/07/2015 bị Công an phường Đồng Nguyên xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy” đến nay L chưa nộp số tiền phạt.

Bị cáo bị tam giữ, tạm gam từ ngày ngày 08/01/2018 đến ngày 11/01/2018 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 0 giờ 15 phút ngày 08/01/2018, Tổ tuần tra của phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Bắc Ninh, tiến hành tuần tra trên địa bàn phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi đến đoạn đường tỉnh lộ 295B trước số nhà 223, khu phố X, phường Đ, Thị xã T. Tổ công tác phát hiện 02 thanh niên điều khiển xe mô tô có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác đã tiến hành dừng xe kiểm tra 02 thanh niên nói trên. Nam thanh niên ngồi sau xe tự khai họ tên là Đỗ Văn L, sinh năm 1985, trú tại: phố T, phường C, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh và người điều khiển xe khai tên họ là Nguyễn Văn D, sinh năm 1993, trú tại: thôn C, xã Y, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh. Qua quá trình kiểm tra lực lượng công an đã bắt quả tang Đỗ Văn L có hành vi tàng trữ trái phép 02 túi nilon ma túy gồm, 01 ( một) túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ trong túi quần bên trái phía sau của L. 01 ( một) túi nilon bên trong có 3 túi nilon nhỏ bên trong mỗi túi đều có chứa chất tinh thể màu trắng.

Tại kết luận giám định số: 161/KLGĐ – PC54 ngày 08/01/2018, của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “ Chất tinh thể màu trắng bên trong 04 túi nilon màu trắng có khối lượng 1,3736 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine”

Tại bản Cáo trạng số 53/Ctr – VKS ngày 19/04/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn đã truy tố Đỗ Văn L về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo L khai nhận: Bản thân L là người thường xuyên sử dụng ma túy. Khoảng 21h00 ngày 07/01/2018, L đi taxi của một người không quen biết từ khu phố S, phường T, thị xã Từ Sơn đến phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn để mua ma túy về sử dụng. Khi đến phường Đình Bảng L đến một nhà D L không quen biết bên ngoài có cửa xếp bằng sắt khóa kín. Tại đây, L đã mua được 02 túi nilon ma túy với giá 900.000 đồng. L cất 01 túi nilon ma túy vào túi quần bên trái phía sau và 01 túi nilon ma túy vào túi quần phía trước, bên phải của L với mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, L đi chơi tại địa bàn Thị xã Từ Sơn. Đến khoảng 00h15’ ngày 08/01/2018, khi L đang ở Đồng Nguyên, L gọi điện cho Nguyễn Văn D là bạn của L đến để trở L về nhà. D đồng ý và mượn xe của Trần Anh T, sinh năm 1971, trú tại thôn Trác Bút, thị trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh để chở L. Khi D điều khiển xe chở L đến trước cửa ngôi nhà số 223, thuộc khu phố Xuân Thụ, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn thì bị lực lượng công an kiểm tra và phát hiện L tàng trữ trái phép chất ma túy, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bị cáo xác định việc bị cáo mua ma túy cúa người khác để sử dụng cho bản thân, khi chưa kịp sử dụng thì bị bắt đang tàng trữ ma túy trong người là vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát Từ Sơn truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, không oan sai gì.

Tại phiên tòa hôm nay, sau khi xét hỏi vị đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ mục đích phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và khẳng định Cáo trạng truy tố bị cáo trước Tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn L từ 21 tháng tù đến 27 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam 08/01/2018.

Áp dụng điều 47 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật còn lại sau giám định, tất cả được đóng gói niêm phong trong phong bì thư có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh; 01 biển số xe máy số BKS 88L1 – 027.33

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Nokia vỏ màu xanh đã qua sử dụng ( Nokia 105).

Bị cáo không tranh luận gì về tội danh và khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai của bị cáo L tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh về số ma túy thu giữ của bị cáo L. Do đó xác định L đã có hành vi mua ma túy sử dụng cho bản thân khi chưa kịp sử dụng thì bị kiểm tra phát hiện bị cáo đang cất giấu ma túy trong người. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Loại ma túy bị cáo tàng trữ là Methamphetamine có trọng lượng 1, 3736 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo Đỗ Văn L về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã xâm phạm vào một khách thể quan trọng được pháp luật hình sự bảo vệ, đó là chế độ độc quyển quản lý chất ma túy của Nhà nước ta. Tính chất phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ buôn bán trái phép chất ma túy, gây mất trật tự xã hội. Hội đồng xét xử xét thấy đối với hành vi này của bị cáo cần phải xử lý với mức hình phạt nghiêm khắc thì mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung tội phạm trên địa bàn.

Về nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo L là người có nhân thân xấu, đã từng bị xử lý hành chính và bị xét xử: Ngày 22/03/2012, Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn xử phạt 26 tháng tù nhưng do hưởng án treo về tội “ Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian thử thách là 49 tháng 02 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. L nộp khoản án phí HSST ngày 22/05/2012; Ngày 21/07/2015 bị Công an phường Đồng Nguyên xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo không lấy những lần xét xử trước làm bài học mà vẫn phạm tội chứng tỏ bị cáo là người khó cải tạo giáo dục.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Về tình tiết tăng nặng, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Căn cứ nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy đối với lân phạm tội này của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo thành người tốt.

Bên cạnh việc bắt bị cáo phải chịu hình phạt chính là hình phạt tù, lẽ ra phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, công việc không ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với mẫu vật còn lại sau giám định, tất cả được đóng gói niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Ninh xét cần phải tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc BKS88L1 – 027.33, qua tra cứu xác định đây là chiếc BKS được đăng ký năm 2011 cho chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave số khung;: 1206BY060222; số máy: 12E2860302 của chị Hoàng Thị H, sinh năm 1979, trú tại Quảng Cao, xã Tam Phúc, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Chị H khai trong quá trình sử dụng chị bị rơi chiếc BKS trên, sau đó chị xin cấp lại BKS. Đến nay, chị không yêu cầu xin lại chiếc BKS trên. Xét chiếc biển số xe 88L1 – 027.33 không còn giá tri sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại NOKIA thu giữ của L xét thấy đây không phải vật dùng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho L nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Đối với chiếc xe mô tô xe Honda Dream BKS 88L1 – 027.33 đã qua sử dụng, có số khung: RLHHA08048Y117131, số máy: HA08E1139252. Cơ quan điều tra công an thị xã Từ Sơn đã chuyển chiếc xe mô tô trên đến cơ quan điều tra công an huyện Lương Tài để giải quyết theo thẩm quyền là phù hợp.

Liên quan trong vụ án có Nguyễn Văn D, tại cơ quan điều tra D khai: do D mượn chiếc xe của anh Trần Anh T; sinh năm 1971; trú tại thôn Trác Bút, thị trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Khi D được L nhờ chở về nhà, D không biết L tàng trữ trái phép chất ma túy. Nên cơ quan công an không xử lý đối với D.

Đối với anh Trần Anh T, anh T khai anh mua chiếc xe trên của một người đàn ông không quen biết khoảng 50 tuổi vào năm 2016. Khi mua không làm giấy tờ mua bán và người này hẹn 03 hôm sau sẽ đem giấy tờ đến cho anh nhưng người này không đem giấy tờ đến. Do vậy, anh T vẫn sử dụng chiếc xe từ khi mua đến nay.

Đối với người đã bán ma túy cho L, L khai mua được tại nhà D trong khu D cư phường Đình Bảng, L không quen biết bên ngoài có cửa xếp bằng sắt khóa kín và khi mua bán ma túy qua khe cửa sắt đóng kín nên L không biết la ai. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào có căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau.

Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn L phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn L 21 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2018

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Đỗ Văn L 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng Điêu 47 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật còn lại sau giám định, tất cả được đóng gói niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh; 01 biển số xe máy số BKS 88L1 – 027.33 

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Nokia 105 vỏ màu xanh đã qua sử dụng. 

Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Bị cáo Đỗ Văn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2017/HSST ngày 24/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về