TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 109/2020/HS-PT NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 13 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 105/2020/TLPT- HS ngày 12 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo: Lê Thị Kim A và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 của Toà án nhân dân huyện Krông Nô.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Lê Thị Kim A, sinh năm 1964 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn D, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Lê Văn Ch và bà Nguyễn Thị L; có chồng là Nguyễn Phi H (đã chết) và 03 con; tiền án: Ngày 20-8-2014, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” và ngày 02-6-2017, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” (tái phạm, chấp hành xong 05-02-2018, chưa được xóa án tích); nhân thân: Ngày 09-9- 2004, bị Công an huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 2.000.000 triệu đồng về hành vi cầm cố đánh bạc; ngày 11-01-2020 tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc và bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 213/2020/HS-PT ngày 26-8-2020, chưa chấp hành hình phạt; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-4-2019 đến ngày 10-7-2019, tại ngoại - Vắng mặt và có đơn xin rút đơn kháng cáo.
2. Phan Hùng V, sinh năm 1963 tại tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: Tổ dân phố Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không;
con ông Phan Hùng Ch và bà Nguyễn Thị Ng (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị H và 02 con; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-4-2019 đến ngày 03-5- 2020 được tại ngoại, trong thời gian tại ngoại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Đắk Lắk khởi tố vụ án, khởi tố bị can, vụ án chưa xét xử; tại ngoại - Có mặt.
3. Trần Hữu P (tên gọi khác: C), sinh năm 1968 tại tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: Thôn W, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Trần Hữu K và bà Trần Thị P (đều đã chết); có vợ là Đỗ Thị N và 03 con; bị bắt tạm giữ từ ngày 12-4-2019 đến ngày 18-4-2019 được tại ngoại, trong thời gian tại ngoại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc, bị Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk khởi tố vụ án, khởi tố bị can, hiện vụ án được chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Đắk Lắk tiếp tục điều tra xử lý theo quy định, vụ án chưa được xét xử; tại ngoại - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:
Do biết trước thời gian và địa điểm tổ chức đánh bạc, trưa ngày 12-4-2019 Nguyễn Bá H và Nguyễn Văn Q đến khu vực bến đò anh Trần Xuân H tại thôn E, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk rồi cùng Đỗ Minh Th đi đò sang bên kia sông thuộc địa phận thôn B, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Nông tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức xóc đĩa. Để đi từ địa bàn tỉnh Đắk Lắk sang thôn B (thuộc tỉnh Đắk Nông) đánh bạc phải qua một con sông nên trước khi đi Th đã liên hệ với anh Trần Xuân H là người làm nghề đánh bắt cá và chở người có nhu cầu qua sông, Th thuê anh Xuân H chở các con bạc qua sông với giá 5.000 đồng/01 người cả đi và về, Th là người trả tiền cho Xuân H. Cũng như 03 ngày trước (sòng bạc hoạt đồng từ ngày 09-4-2019) Th, H và Q được anh Xuân H chở qua sông rồi đi đến địa điểm tổ chức sòng bạc, đó là bãi đất trống, phía trên là núi rừng, phía dưới là sông, không có người qua lại thuộc địa phận thôn B, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Nông. Khi đến sòng bạc thì đã có một số con bạc đến trước và một số con bạc đi cùng chuyến đò với Th, lúc này Th nhờ Q đục con vị, thu tiền xâu một số con bạc và nhờ H trông coi tiền trên sòng và thu tiền xâu của một số con bạc đến sau để đưa cho Th. Dụng cụ dùng để đánh bạc gồm: bạt che trên, bạt trải dưới đất, chén, đĩa, bàn sen cô, ống dùng để đục vị, búa đinh, gỗ kê đục vị và ghế nhựa đã được Th chuẩn bị trước đó. Hình thức đánh như sau: Người cầm cái sử dụng chén, đĩa để xóc 04 con vị hình tròn được cắt ra từ lá bài tú lơ khơ, mỗi con vị có một mặt sấp gọi là đen và một mặt ngửa gọi là trắng. Sau khi người cầm cái xóc đĩa xong thì những người tham gia đánh bạc đặt tiền vào cửa chẵn hoặc lẻ được quy ước trên chiếu bạc. Sau khi đặt tiền xong người xóc cái mở chén để xem kết quả, nếu kết quả là chẵn (02 con vị sấp 02 con vị ngửa, 04 con vị cùng sấp hoặc 04 con vị cùng ngửa) thì người đặt cược tiền bên chẵn thắng số tiền đã đặt, người đặt cược bên lẻ thua số tiền đã đặt, nếu kết quả là lẻ (01 con vị sấp 03 con vị ngửa hoặc 01 con vị ngửa 03 con vị sấp) thì người đặt cược tiền bên lẻ thắng số tiền đã đặt, người đặt cược bên chẵn thua số tiền đã đặt. Sòng bạc bắt đầu hoạt động khoảng 14 giờ ngày 12-4-2019 Th là người xóc cái từ đầu đến cuối, các con bạc đến tham gia đánh phải đóng mỗi người 200.000 đồng tiền xâu, trừ trường hợp quen biết trong đó có H và Q. Ngoài việc giúp Th chuẩn bị dụng cụ để đánh bạc, thu xâu và trông coi tiền trên chiếu bạc H và Q còn trực tiếp tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền.
Các con bạc chủ yếu là những người cư trú ở các huyện, thành phố thuộc tỉnh Đắk Lắk đến bến đò và được anh Xuân H chở qua sông rồi đi bộ đến sòng bạc có 20 người tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, quá trình sòng bạc hoạt động có 02 đối tượng L và L1 (chưa rõ nhân thân lai lịch) làm nhiệm vụ cảnh giới, số người tham gia đặt cược không ổn định, đàn ông có, phụ nữa có, không quy định mức đặt cược. Sòng bạc hoạt động đến 16 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện Krông Nô phát hiện bắt quả tang, tại thời điểm bắt sòng bạc có khoảng 20 con bạc tham gia đặt cược nhưng bắt giữ được 09 đối tượng trong đó có: Trần Quang Ch, Phạm Văn T, Đoàn Đức T, Nguyễn Văn H, Phan Hùng V, Hòa Quang T, Lê Thị Kim A, Phạm Cường Th và Trần Hữu P các con bạc khác chạy thoát trong đó có Nguyễn Bá H và Nguyễn Văn Q. Thu giữ trên chiếu bạc số tiền 18.230.000 đồng và dụng cụ dùng để đánh bạc. Quá trình điều tra, Lê Thị Kim A đến sòng bạc lấy nợ số tiền 300.000đ và sử dụng hết để đánh bạc, Kim A đặt cược nhiều lần, đến thời điểm sòng bạc bị bắt Kim A thua hết số tiền 300.000đ; Phan Hùng V mang theo 2.000.000đ, đóng tiền xâu 200.000đ còn lại sử dụng hết để đánh bạc, V đặt cược từ 100.000đ đến 200.000đ đến thời điểm sòng bạc bị bắt V thua 400.000đ, số tiền còn lại bị thu giữ tại chiếu bạc; Trần Hữu P mang theo số tiền 1.700.000đ, đóng tiền xâu 200.000đ còn lại sử dụng hết để đánh bạc, P đặt cược từ 100.000đ đến 700.000đ thắng có, thua có, đến thời điểm sòng bạc bị bắt P đặt cược 300.000đ lần cuối chưa kịp mở chén thì bị bắt.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2020/HS-ST ngày 09-9-2020 của Toà án nhân dân huyện Krông Nô đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Lê Thị Kim Anh, Phan Hùng V và Trần Hữu P phạm tội “Đánh bạc”.
1. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thị Kim A 03 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 03 năm tù về tội “Đánh bạc” tại Bản án hình sự phúc thẩm số:
213/2020/HSPT ngày 26-8-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo phải chấp hành phạt chung của 02 bản án là 06 năm 06 tháng tù.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P mỗi bị cáo 10 tháng tù.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 21 và ngày 22-9-2020, các bị cáo Lê Thị Kim A, Phan Hùng V và Trần Hữu P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Trước khi mở phiên tòa, bị cáo Lê Thị Kim A có đơn xin rút đơn kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P thừa nhận Tòa án nhân huyện Krông Nô xử phạt các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan và giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với kháng cáo của bị cáo Lê Thị Kim A trước khi mở phiên tòa bị cáo đã có đơn xin rút kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Thị Kim A.
Các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P không có ý kiến bào chữa, tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2020/HS-ST ngày 09-9-2020 của Toà án nhân dân huyện Krông Nô đã kết án các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2]. Trước khi mở phiên tòa, bị cáo Lê Thị Kim A có đơn xin rút đơn kháng cáo, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Thị Kim A.
[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt mức hình phạt đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra cũng như nhân thân của các bị cáo. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các bị cáo cung cấp không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P.
Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[4]. Do kháng cáo của các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 348; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Thị Kim A.
2. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 30/2020/HS-ST ngày 09-9-2020 của Toà án nhân dân huyện Krông Nô. Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:
2.1. Xử phạt Phan Hùng V 10 (Mười) tháng tù về tội “Đánh bạc”, tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-4- 2019 đến ngày 03-5-2019.
2.2. Xử phạt Trần Hữu P 10 (Mười) tháng tù về tội “Đánh bạc”, tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-4-2019 đến ngày 18-4-2019.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Phan Hùng V và Trần Hữu P mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 109/2020/HS-PT ngày 13/11/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 109/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về