Bản án 109/2020/HNGĐ-ST ngày 28/12/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨNG LIÊM, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 109/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 365/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2020, về tranh chấp “ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 206/2020/QĐXX-ST ngày 07 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thanh P – sinh ngày: 02/3/1983 (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Võ Hoàng S – sinh ngày: 20/02/1981 (có mặt).

Cùng địa chỉ: ấp Chợ Mới, xã Trung Chánh, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 11/8/2020, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Lê Thanh P trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Võ Hoàng S do quen biết rồi về chung sống với nhau năm 2006, không có đăng ký kết hôn. Trong thời gian vợ chồng chung sống thì anh chị sống chung gia đình cha mẹ chồng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 12 năm đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, anh Hoàng S thường hay hâm dọa đòi giết chị và gia đình chị làm chị rất lo sợ cảm thấy không thể chung sống với anh Hoàng S được nữa, ngoài ra anh Hoàng S thường xuyên đuổi chị đi. Chị và anh Hoàng S đã không còn sống chung với nhau từ năm 2018 đến nay. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với anh Võ Hoàng S.

- Về con chung: Có một con chung tên Võ Thị P C, sinh ngày 08/11/2007. Hiện nay cháu C đang sống chung với chị. Sau khi ly hôn chị P yêu cầu được nuôi dưỡng cháu C, chị P không yêu cầu anh Hoàng S cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài saûn chung: Chị Lê Thanh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung phải thu phải trả của vợ chồng: Chị Lê Thanh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Võ Hoàng S trình bày:

- Về mối quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất theo lời trình bày của chị P nhưng anh bổ sung thêm mâu thuẫn vợ chồng do trong lúc vợ chồng cự cải anh có nóng giận anh có kêu chị P đi luôn đi nhưng không phải cố tình anh đuổi chị P. Anh và chị P đã không còn sống chung với nhau từ năm 2018 cho đến nay, trong thời gian đó anh không có tìm cơ hội để vợ chồng đoàn tụ với nhau. Nay với yêu cầu xin ly hôn của chị P thì anh không đồng ý mà anh yêu cầu được đoàn tụ.

- Về con chung: Có một con chung tên Võ Thị P C, sinh ngày 08/11/2007.

Sau khi ly hôn chị P yêu cầu được nuôi dưỡng cháu C, chị P không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con. Anh Hoàng S cũng đồng ý giao con cho chị P nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung: Anh Võ Hoàng S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung phải thu phải trả của vợ chồng: Anh Võ Hoàng S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài liệu, chứng cứ trong vụ án:

Nguyên đơn đã nộp: Đơn khởi kiện ngày 11/8/2020; Đơn xin xác nhận; Sổ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân (bản sao); Giấy khai sinh; Dịch vụ chuyển phát nhanh.

Bị đơn đã nộp: Bảng khai ý kiến.

Tại phiên tòa hôm nay, đương sự khẳng định không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Lê Thanh P có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long giải quyết việc ly hôn giữa chị P và anh Võ Hoàng S. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh Hoàng S là quan hệ hôn nhân không hợp pháp do chị P và anh Hoàng S không có đăng ký kết hôn. Anh chị sống hạnh phúc được 12 năm đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị P trình bày thì anh Hoàng S thường hay hâm dọa đòi giết chị làm chị lo sợ, anh Hoàng S thường xuyên đuổi chị đi. Anh Hoàng S cũng thừa nhận là lúc anh nóng giận anh cũng có đuổi chị đi nhưng anh vẫn còn tình cảm với chị P nên anh yêu cầu chị P về đoàn tụ, chị P không đồng ý mà chị yêu cầu ly hôn vì chị không còn tình cảm với anh Hoàng S. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm giữa chị P và anh Hoàng S không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do chị P và anh Hoàng S không có đăng ký kết hôn nên không có giá trị pháp lý không công nhận chị P và anh Hoàng S là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Có một con chung tên Võ Thị P C, sinh ngày 08/11/2007.

Hiện nay cháu C đang sống với chị P, sau khi ly hôn chị P yêu cầu được nuôi dưỡng cháu C, chị P không yêu cầu anh Hoàng S cấp dưỡng nuôi con. Cháu C cũng có nguyện vọng muốn sống với chị P, anh Hoàng S cũng đồng ý nên Hội đồng xét xử giao cháu C cho chị P nuôi dưỡng, anh Hoàng S không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Lê Thanh P và anh Võ Hoàng S không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị Lê Thanh P và anh Võ Hoàng S không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thanh P phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 9, Điều 14, Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Không công nhận chị Lê Thanh P và anh Võ Hoàng S là vợ chồng.

Về con chung: Có một con chung tên Võ Thị P C, sinh ngày 08/11/2007. Giao cháu Võ Thị P C cho chị chị Lê Thanh P trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Võ Hoàng S không phải cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về tài sản chung: Chị Lê Thanh P và anh Võ Hoàng S không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị Lê Thanh P và anh Võ Hoàng S không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thanh P phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Số tiền trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà chị Lê Thanh P đã nộp theo biên lai thu số N0 0008460, ngày 08/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vũng Liêm. Chị Lê Thanh P đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2020/HNGĐ-ST ngày 28/12/2020 về ly hôn

Số hiệu:109/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về