TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 109/2019/HSST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 113/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2019/QĐXXST-HS ngày 13-9-2019 đối với các bị cáo:
1. Lò Văn S; tên gọi khác: Không; sinh ngày 24/02/1983 tại bản Nam, xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản N, xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo : Không; trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam sinh hoạt tại Chi bộ Bản Nam – Đảng bộ xã Mường Khiêng; đã bị Đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số: 129 /QĐ – UBKT HU ngày 27/8/2019 của Ủy ban kiểm tra Huyện ủy Thuận Châu; con ông Lò Văn H, sinh năm 1959 và bà Lò Thị S, sinh năm: 1960; vợ là Lường Thị S, sinh năm 1984 và có 02 con, lớn 18 tuổi, nhỏ 16 tuổi; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 05/7/2019 đến ngày 11/7/2019 được Áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
2. Lò Văn H; tên gọi khác: Không; sinh ngày 30/3/1996 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản N, xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể) : không; con ông Lò Văn C, sinh năm: 1974 và bà Lèo Thị L, sinh năm: 1975; vợ là Lường Thị D, sinh năm 1996 và có 01 con 02 tuổi; tiền án, tiền sự: không có; bị tạm giữ từ ngày 05/7/2019 đến ngày 11/7/2019 được Áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
3. Lò Văn S 1; tên gọi khác: Không; sinh ngày 15/3/1987 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản H, xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 05/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): không; con ông Lò Văn P, sinh năm: 1965 và bà Lò Thị Th, sinh năm: 1968; vợ là Quàng Thị Th, sinh năm: 1988 và có 02 con, lớn 14 tuổi, nhỏ 12 tuổi; tiền án, tiền sự: không có; bị tạm giữ từ ngày 05/7/2019 đến ngày 11/7/2019 được Áp d ụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
4. Bạc Cầm N; tên gọi khác: Không; sinh ngày 18/01/1993 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản H, xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 03/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể) : không; con ông Bạc Cầm M, sinh năm: 1965 và bà Bạc Thị Phanh, sinh năm: 1968; vợ là Tòng Thị Nghiệp và 01 con 06 tuổi; sinh năm: 1998; tiền án, tiền sự: không có; bị tạm giữ từ ngày 05/7/2019 đến ngày 11/7/2019 được Áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
5. Tòng Văn D; tên gọi khác: Không; sinh ngày 19/10/1995 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản HS, xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp : Trồng trọt; chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): không; con ông Tòng Văn Xương, sinh năm: 1974 và bà Tòng Thị Hía, sinh năm: 1974; chưa có vợ con; tiền án: Bị cáo có 01 tiền án (ngày 30/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày 30/11/2018); tiền sự: Không có; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/7/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 05/7/2019, Bạc Cầm N và Lò Văn S cùng nhau đến nhà Lò Văn S ở bản N, Mường Khiêng, Thuận Châu chơi thì gặp Tòng Văn D đang ngồi uống nước với Lò Văn S trong nhà của Sâm. Khi cả bốn người đang ngồi uống nước thì Sâm rủ D, N, S đánh bạc bằng hình thức chơi Liêng cá cược thắng thua bằng tiền với tỷ lệ cá cược thấp nhất là 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), cao nhất là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)/ 1 người/ 1 ván thì D, N, S1 đều đồng ý. Sau đó S lấy một bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài cũ ở trên tủ ti vi trong nhà S và cùng D, N, S1 ngồi xuống 02 chiếc chiếu nhựa đã trải sẵn dưới s àn nhà S cùng nhau đánh bạc, cả bốn người cùng thống nhất Đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền bằng hình thức sử dụng một bộ tú lơ khơ 52 quân bài để Chơi Liêng sát phạt nhau bằng tiền, với hình thức chơi như sau: Trước khi chia bài thì mỗi người chơi đều bỏ ra số tiền 100.000đ đặt xuống chiếu bạc để góp tiền làng ( Góp gà), sau đó mỗi người được chia 03 quân bài, sau khi mọi người kiểm tra bài thì người chia bài nếu xét thấy bài của mình có thể thắng những người còn lại thì sẽ là người đầu tiên đưa ra mức cá cược ( Tố) với mức thấp nhấp là 100.000đ, cao nhất là 300.000đ và bỏ số tiền mà mình cá cược xuống chiếu bạc, người tiếp theo được tham gia cá cược là người ngồi bên tay phải theo thứ tự ngồ i của người chia bài ( Ngược chiều kim đồng hồ), nếu thấy bài của mình yếu thì có thể úp bài và chịu thua mất số tiền mình đã góp làng và đã cá cược, nếu xét thấy bài mình mạnh thì tham gia cá cược và đặt tiền cá cược xuống chiếu bạc, số tiền cá cược không được ít hơn mà phải bằng hoặc cao hơn số tiền người đã cá cược trước đó, mọi người thống nhất tổng số tiền tham gia cá cược mỗi lần cá cược ( Lần tố) không được quá 300.000đ và không giới hạn số lần cá cược (Lần tố) trong một ván. Khi chỉ còn 02 người tham gia cá cược hoặc khi mọi người cùng thống nhất mở bài thì mọi người sẽ so bài với nhau để tìm người duy nhất thắng cuộc theo thứ tự từ lớn đến thấp cụ thể là: Sáp > Liêng > Ảnh > Điểm. Trong đó: Sáp là có 3 quân bài giống nhau thấp nhất là 2 2 2, cao nhất là A A A, - Liêng là có 3 quân bài thứ tự liền kề nhau, thấp nhất là A 2 3, cao nhất là Q K A- Ảnh là có 3 quân bài từ J đến K trong đó có 01 quân bài không trùng với 2 quân bài còn lại, thấp nhất là J J Q, cao nhất là K K Q - Điểm là thấp nhất sẽ cộng điểm của 3 quân bài lại ( Không cộng tính điểm quân bài từ 10 đến K ) theo thang điểm 9, ai cao điểm hơn là người thắng cuộc. Người thắng cuộc sẽ được hưởng toàn bộ số tiền mà những người còn lại đã góp tiền làng và đã cá cược bỏ xuống chiếu bạc. mỗi ván chơi người chơi có thể cá cược ( Tố) hoặc không cá cược, nếu có 02 người trở lên có sáp, liêng, ảnh hoặc điểm bằng nhau thì sẽ so bài sáp, liêng, ảnh, điểm ai cao nhất sẽ thắng, nếu điểm bằng nhau thì sẽ so chất từ lớn đến bé là theo thứ tự là: Rô > Cơ > Tép > Bích. Sau đó cả bốn người cùng nhau đánh bạc được khoảng 20 phút thì có Lò Văn H đến và tham gia đánh bạc cùng Sâm, Diên, Nủi, Sin với hình thức và mức cá cược như ban đầu mà Sâm, Diên, Nủi, Sin đã thống nhất. Khi cả 5 người đang đánh bạc sát phạt nhau đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang thu giữ tang vật như đã nêu trên. Sau đó Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D cùng tang vật đã được dẫn giải về Công an huyện Thuận Châu xử lý theo quy định của pháp luật. ( BL 127 đến 255 HS).
* Tang vật thu giữ gồm:
1. Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 4.700.000đ ( Bốn triệu bảy trăm nghìn đồng) thu giữ trên chiếu bạc tại vị trí ngồi đánh bạc của Lò Văn S. ( Sâm khai nhận số tiền của Sâm sử dụng vào mục đích đánh bạc) .
2. Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 7.600.000đ ( Bảy triệu sáu trăm nghìn đồng) thu giữ trên chiếu bạc tại vị trí ngồi đánh bạc của Tòng Văn D. ( Diên khai nhận số tiền của Diên sử dụng vào mục đích đánh bạc) .
3. Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.800.000đ ( Một triệu tám trăm nghìn đồng) thu giữ trên chiếu bạc tại vị trí ngồi đánh bạc của Lò Văn S 1. ( Sin khai nhận số tiền của Sin sử dụng vào mục đích đánh bạc).
4. Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 2.200.000đ ( Hai triệu hai trăm nghìn đồng ) thu giữ trên chiếu bạc tại vị trí ngồi đánh bạc của Lò Văn H. ( Hổng khai nhận số tiền của Hổng sử dụng vào mục đích đánh bạc) .
5. Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.500.000đ ( Một triệu năm trăm nghìn đồng ) thu giữ trên chiếu bạc tại vị trí ngồi đánh bạc của Bạc Cầm N. ( Nủi khai nhận số tiền của Nủi sử dụng vào mục đích đánh bạc).
6. 52 (Năm mươi hai) quân bài tú lơ khơ cũ, đã qua sử dụng được niêm phong trong 01 (Một) phong bì thư.
7. 01 (Một) chiếc chiếu nhựa màu Đỏ - vàng - đen - trắng, kích thước 1,6m x 0,8m cũ, đã qua sử dụng.
8. 01 (Một) chiếc chiếu nhựa màu Xanh - đỏ, kích thước 1,6m x 0,8m cũ, đã qua sử dụng.
(Gồm: Tám khoản). (BL: 01 đến 05 HS).
Ngày 08/7/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 3262/QĐTC ngày 08/7/2019 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định số tiền: 17.800.000đ (Mười bảy triệu tám trăm nghìn đồng) thu giữ của Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D vào ngày 05/7/2019. Tại Kết luận giám định số: 1252/KLGĐ ngày 10/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Số tiền 17.800.000đ có số mã hiệu ghi trong Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định lập ngày 09/7/2019 là tiền thật. ( BL 35 đến 37 HS).
Quá trình điều tra xác định được tổng số tiền mà Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D sử dụng vào mục đích đánh bạc là: 17.800.000đ ( Mười bảy triệu tám trăm nghìn đồng), trong đó số tiền từng người sử dụng vào việc đánh bạc và số tiền thắng, thua bạc tại thời điểm bị bắt giữ cụ thể như sau:
- Lò Văn S sử dụng số tiền: 1.000.000đ (Một triệu đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thắng bạc số tiền 3.700.000đ, nên thu giữ số tiền: 4.700.000đ.
- Tòng Văn D sử dụng số tiền: 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thua bạc số tiền 2.400.000đ, nên thu giữ số tiền: 7.600.000đ.
- Bạc Cầm N sử dụng số tiền: 2.400.000đ (Hai triệu bốn trăm nghìn đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thua bạc số tiền 900. 000đ, nên thu giữ số tiền: 1.500.000đ.
- Lò Văn S 1 sử dụng số tiền: 3.500.000đ ( Ba triệu năm trăm nghìn đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thua bạc số tiền 1.700.000đ, nên thu giữ số tiền: 1.800.000đ.
- Lò Văn H sử dụng số tiền: 900.000đ ( Chín trăm nghìn đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thắng bạc số tiền 1.300.000đ, nên thu giữ số tiền: 2.200.000đ ..
Bản cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 27-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La truy tố các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D đã phạm tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo về tội Đánh bạc là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh và hình phạt:
- Tuyên bố các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D phạm tội Đánh bạc.
Căn cứ điểm i,s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 321; khoản 1,2,5 Điều 65; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự
Xử phạt bị cáo Lò Văn S 10 tháng đến 13 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20 tháng đến 26 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/9/2019)
Xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/9/2019)
Xử phạt bị cáo Bạc Cầm N từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/9/2019)
Xử phạt bị cáo Lò Văn S 1 từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/9/2019)
Giao các Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 cho UBND xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Tòng Văn D từ 12 tháng đến 16 tháng tù. Áp dụng khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 09 tháng tù, được khấu trừ 03 (ba) ngày tạm giữ tạm giam, bị cáo còn phải chấp hành tiếp 08 tháng 27 ngày về tội Đánh bạc tại Bản án số 207/2018/ HSST ngày 30-11-2018 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu. Áp dụng khoản 1 Điều 55; khoản 2 Điều 56 BLHS buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung của hai bản án từ 20 tháng 27 ngày đến 24 tháng 27 ngày, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05-07-2019 Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy: Năm mươi hai quân bài tú lơ khơ đã qua sử dụng được niêm phong trong một phong bì thư; Một chiếc chiếu nhựa, màu đỏ - vàng - đen - trắng, kích thước 1,6x0,8m cũ, đã qua sử dụng; Một chiếc chiếu nhựa, màu xanh đỏ, kích thước 1,6x0,8m cũ, đã qua sử dụng.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 17.800.000đ(Mười bảy triệu tám trăm nghìn đồng).
Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo
Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS năm 2015: Báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử bị cáo về tội Đánh bạc. Nay các bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Thuận Châu Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Ngày 05/7/2019 tại Bản Nam, xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D đã có hành vi Đánh bạc bằng hình thức chơi Liêng sát phạt nhau bằng tiền, với tổng số tiền sử dụng vào việc Đánh bạc là: 17.800.000đ (Mười bảy triệu tám trăm nghìn đồng), cụ thể như sau:
- Lò Văn S sử dụng số tiền: 1.000.000đ (Một triệu đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thắng bạc số tiền 3.700.000đ, nên thu giữ số tiền: 4.700.000đ.
- Tòng Văn D sử dụng số tiền: 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thua bạc số tiền 2.400.000đ, nên thu giữ số tiền: 7.600.000đ.
- Bạc Cầm N sử dụng số tiền: 2.400.000đ (Hai triệu bốn trăm nghìn đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thua bạc số tiền 900.000đ, nên thu giữ số tiền: 1.500.000đ.
- Lò Văn S 1 sử dụng số tiền: 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thua bạc số tiền 1.700.000đ, nên thu giữ số tiền: 1.800.000đ.
- Lò Văn H sử dụng số tiền: 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng) để đánh bạc, khi bị bắt giữ đang thắng bạc số tiền 1.300.000đ, nên thu giữ số tiền: 2.200.000đ..
Tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo phù hợp với:
Lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 12 giờ 00 phút ngày 05-7-2019, bản kết luận giám định số 3262/ QĐTC ngày 08/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi Đánh bạc, sát phạt nhau bằng tiền bằng hình thức chơi Liêng của các bị cáo đã phạm vào tội đánh bạc, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét vị trí vai trò đồng phạm, cần xem xét đến tính chất, vai trò của từng bị cáo để lên cho mỗi bị cáo mức án phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo: Đối với bị cáo Lò Văn S là người khởi xướng, rủ Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D cùng tham gia đánh bạc nên Lò Văn S giữ vai trò chính trong vụ án. Đối với bị cáo Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 và Tòng Văn D là người bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực nên phải chịu trách nhiệm cho hành vi mà mình gây ra. Cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo.
[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã xâm phạm đến đến trật tự công cộng mà trực tiếp là xâm phạm đến nếp sống văn minh của xã hội. Cần vận dụng khoản 1 điều 321 BLHS để có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.
[5] Xét nhân thân, các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và biết rõ việc đánh bạc là hành vi bị Nhà nước nghiêm cấm, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội đặc biệt là nếp sống văn minh, là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 là người chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo Tòng Văn D có 01 tiền án về tội Đánh bạc chưa xóa án tích. Vì vậy cần lên một mức án phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm mới tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
[6] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 là người chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Bị cáo Tòng Văn D là người chưa có tiền sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
[7] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS. Ngày 30/11/2018 bị cáo Tòng Văn D bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày 30/11/2018, chưa xóa án tích tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[8] Xét các yếu tố nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo quy định tại điểm i,s khoản 1 Điều 51 BLHS ); không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc; có nơi cư trú rõ ràng, ổn định để cơ quan có thẩm quyền giám sát, giáo dục; có đơn xin hưởng án treo có xác nhận của chính quyền địa phương, có bảo lãnh của gia đình. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù giam bởi các bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho các bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; không cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội, cho bị cáo cơ hội cải tạo ngoài cộng đồng cũng đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm nói chung, đồng thời cũng thể hiện chính sách pháp luật nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, thể hiện đường lố i xét xử nghiêm trị kết hợp giáo dục cải tạo.
Ngày 30/11/2018 bị cáo Tòng Văn D bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày 30/11/2018, chưa xóa án tích tiếp tục phạm tội nên cần áp dụng khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 09 tháng tù, được khấu trừ 03 (ba) ngày tạm giữ tạm giam, bị cáo còn phải chấp hành tiếp 08 tháng 27 ngày về tội Đánh bạc tại Bản án số 207/2018/ HSST ngày 30-11- 2018 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu. Áp dụng khoản 1 Điều 55; khoản 2 Điều 56 BLHS buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung của hai bản án.
[9] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 3 Điều 321 BLHS, căn cứ đề nghị của Viện kiếm sát và xét hoàn cảnh của các bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử miễn phạt tiền.
[10] Về vật chứng: Đối với năm mươi hai quân bài tú lơ khơ đã qua sử dụng được niêm phong trong một phong bì thư; một chiếc chiếu nhựa, màu đỏ - vàng - đen - trắng, kích thước 1,6x0,8m cũ, đã qua sử dụng; một chiếc chiếu nhựa, màu xanh đỏ, kích thước 1,6x0,8m cũ, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội và hết giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 17.800.000đ (Mười bảy triệu tám trăm nghìn đồng) là tiền các bị cáo dùng vào việc phạm tội cần Tịch thu sung công quỹ nhà nươc theo Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[11] Các bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (riêng bị cáo Lò Văn S 1 thuộc hộ nghèo) nên Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[12] Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt Căn cứ điểm i,s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 321; khoản 1,2,5 Điều 65; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự Tuyên bố các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 phạm tội Đánh bạc.
Xử phạt bị cáo Lò Văn S 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/9/2019).
Xử phạt bị cáo Lò Văn H 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày t uyên án sơ thẩm (ngày 25/9/2019).
Xử phạt bị cáo Bạc Cầm N 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/9/2019).
Xử phạt bị cáo Lò Văn S 1 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/9/2019).
Giao các Lò Văn S, Lò Văn H, Bạc Cầm N, Lò Văn S 1 cho UBND xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Tòng Văn D phạm tội Đánh bạc.
Xử phạt bị cáo Tòng Văn D 12 (mười hai) tháng tù. Áp dụng khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 09 (chín) tháng tù, được khấu trừ 03 (ba) ngày tạm giữ tạm giam, bị cáo còn phải chấp hành tiếp 08 (tám) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày về tội Đánh bạc tại Bản án số 207/2018/ HSST ngày 30-11-2018 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu. Áp dụng khoản 1 Điều 55; khoản 2 Điều 56 BLHS buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung của hai bản án 20 (hai mươi) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05-07-2019 (ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo)
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy: Năm mươi hai quân bài tú lơ khơ đã qua sử dụng được niêm phong trong một phong bì thư; Một chiếc chiếu nhựa, màu đỏ - vàng - đen - trắng, kích thước 1,6x0,8m cũ, đã qua sử dụng; Một chiếc chiếu nhựa, màu xanh đỏ, kích thước 1,6x0,8m cũ, đã qua sử dụng.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 17.800.000đ (Mười bảy triệu tám trăm nghìn đồng).
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS năm 2015: Báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 109/2019/HSST ngày 25/09/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 109/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về