Bản án 109/2017/DS-PT ngày 20/07/2017 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 109/2017/DS-PT NGÀY 20/07/2017 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 20 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án Nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 104/2015/TLPT-DS ngày 12 tháng 01 năm 2015 về tranh chấp quyền sử dụng đất.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2014/DS-ST, ngày 30 tháng 10 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 273/2017/QĐPT-DS ngày 27 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1934. Địa chỉ cư trú: ấp P, xã S, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Giang Minh C, sinh năm 1951; Địa chỉ cư trú: Đường B, Phường 3, Thành phố T, tỉnh Trà Vinh (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 15/3/2012).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Bùi Khắc Toản thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Ông Lâm Đức T, sinh năm 1964.

Địa chỉ cư trú: ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Anh Nguyễn Vũ P, sinh năm 1987. Địa chỉ cư trú: ấp T, xã K, huyện C, tỉnh Trà Vinh (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 18/5/2015).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Đặng Văn Chung – thuộc Đoàn luật sư tỉnh Trà Vinh.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. NLQ1, sinh năm 1969;

2. NLQ2, sinh năm 1992;

3. NLQ3, sinh năm 1954;

Cùng địa chỉ cư trú: ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

4. NLQ4, sinh năm 1959; Địa chỉ cư trú: Đường P, phường 1, Thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện hợp pháp của NLQ1, NLQ2, NLQ3, NLQ4: Ông Giang Minh C, sinh năm 1951. Địa chỉ cư trú: Đường B, Phường 3, Thành phố T, tỉnh Trà Vinh (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 14/5/2012; 4/5/2015; 9/6/2015) Có mặt.

5. NLQ5, sinh năm 1987;

6. NLQ6, sinh năm 1989;

Người đại diện hợp pháp của NLQ5, NLQ6: Là NLQ7,  sinh năm 1963. Cùng địa chỉ cư trú: ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 15/8/2012).

7. NLQ7, sinh năm 1963;

Địa chỉ cư trú: ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

8. NLQ8, sinh năm 1933 (chết ngày 20/02/2017)

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của NLQ8:

8.1. Ông Ngô Tòng L, sinh năm 1959;

Địa chỉ cư trú: Đường P, phường 1, Thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

8.2. Ông Ngô Phước L, sinh năm 1954;

Địa chỉ cư trú: ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

Người đại diện hợp pháp của ông Ngô Phước L, ông Ngô Tòng L: Ông Giang Minh C, sinh năm 1951. Địa chỉ cư trú: Đường B, Phường 3, Thành phố T, tỉnh Trà Vinh (được ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 06/3/2017; 07/3/2017).

9. NLQ9.

Địa chỉ: Thị trấn T, huyện T, tỉnh Trà Vinh (xin vắng mặt).

- Người kháng cáo: Ông Lâm Đức T là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20/03/2012, đơn khởi kiện bổ sung ngày 03/6/2014 nguyên đơn bà Nguyễn Thị L và trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Giang Minh C trình bày: Vào năm 1941 bà Huỳnh Thị T là mẹ của bà Lâm Thị Đ (bà ngoại của bà Nguyễn Thị L) có mua của ông Kim R diện tích 0,H52 (5.200m2) đất thổ trạch; Năm 1969 bà Huỳnh Thị T chết thì bà Lâm Thị Đ được thừa hưởng diện tích đất này và thực hiện đăng ký kê khai quyền sử dụng đất. Đến ngày 12/9/1996 bà Lâm Thị Đ được Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.320m2, thửa 654, tờ bản đồ số 4, loại đất ở cây ăn quả, tọa lạc ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh. Tại thửa đất này, ông Lâm Đức T đã lấn chiếm để cất nhà ở diện tích 443,2m2 khoảng năm 1972 đến nay. Lúc còn sống bà Lâm Thị Đ có yêu cầu Tòa án giải quyết, nhưng chưa giải quyết xong thì bà Lâm Thị Đ chết; Nay bà Nguyễn Thị L là người thừa kế của bà Lâm Thị Đ khởi kiện yêu cầu ông Lâm Đức T trả lại cho bà Nguyễn Thị L diện tích đất 443,2m2  nằm một phần trong diện tích 1.320m2, thuộc thửa 654, tờ bản đồ số 4, loại đất ở cây ăn quả, tọa lạc ấp O, xã H, huyện T. Trường hợp gia đình ông Lâm Đức T đã xây dựng nhà cơ bản và không còn chỗ ở nào khác thì yêu cầu hoàn trả cho bà Nguyễn Thị L giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường.

Theo lời khai của NLQ7 là người đại diện hợp pháp cho bị đơn ông Lâm Đức T trình bày: Vào năm 1972 gia đình ông Lâm Đức T từ Vĩnh Long chạy giặc về cất nhà ở trên đất này, lúc đó đất là nền của đồn bót cũ. Đến năm 1985 NLQ7 kết hôn với ông Lâm Đức T và cùng chung sống trên đất đến nay. Do không am hiểu pháp luật nên trong quá trình sử dụng gia đình NLQ7 không có kê khai đăng ký quyền sử dụng đất. Qua yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đại diện cho gia đình NLQ7 không đồng ý trả đất cho bà Nguyễn Thị L cũng không đồng ý trả giá trị quyền sử dụng đất theo yêu cầu của ông Giang Minh C mà yêu cầu tiếp tục sử dụng. Vì gia đình NLQ7 đã xây nhà cơ bản ở ổn định từ năm 1972 đến nay và không còn chỗ ở nào khác. Đề nghị Tòa án xem xét hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Lâm Thị Đ.

Theo đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 30/10/2014 ông Lê Thanh B đại diện theo ủy quyền NLQ9 trình bày: Phần đất tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị L với 13 hộ có tổng diện tích chung 4.440m2, thuộc các thửa 654, 656, tọa lạc ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh (trong đó có hộ ông Lâm Đức T) do bà Lâm Thị Đ kê khai đăng ký vào ngày 25/7/1994 đã được Hội đồng đăng ký quyền sử dụng đất xã H xét cấp và được Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng theo quy định của Luật đất đai năm 1993. Việc bị đơn đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Lâm Thị Đ là không có cơ sở.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2014/DSST ngày 30/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện T đã xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L ủy quyền cho ông Giang Minh C yêu cầu bị đơn ông Lâm Đức T hoàn trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 443,2m2 thửa 654, tọa lạc ấp O, xã H, huyện T.

Buộc bị đơn ông Lâm Đức T có trách nhiệm hoàn trả tiền giá trị quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị L bằng: 88.640.000 đồng (giao cho bà Nguyễn Thị L quản lý số tiền này theo quy định của pháp luật về quản lý di sản thừa kế).

Khi án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án dân sự, cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án dân sự còn phải trả lãi của số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Giao cho ông Lâm Đức T được tiếp tục sử dụng diện tích 443,2m2, thửa 654,loại đất ở cây ăn quả, tọa lạc ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

- Hướng Đông giáp thửa 650 có số đo: 16,30m;

- Hướng Tây giáp đường đất có số đo: 18m;

- Hướng Nam giáp thửa 653 có số đo: 29,10m;

- Hướng Bắc giáp thửa 654 có số đo: 23,50m.

Vị trí diện tích 443,2m2, thửa 654 được xác định theo trích lục đo đạc theo hiện trạng ngày 13/5/2014 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện T kèm theo bản án này.

Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lập thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lâm Đức T theo quy định của pháp luật về đất đai.

Ngày 12 tháng 11 năm 2014 bị đơn ông Lâm Đức T làm đơn kháng cáo với yêu cầu công nhận diện tích đất 443,2m2, thuộc thửa 654, tọa lạc tại ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh thuộc quyền sử dụng của ông Lâm Đức T và ông Lâm Đức T không đồng ý trả giá trị quyền sử dụng đất cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị L.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay đại diện cho nguyên đơn vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện và đại diện cho bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau việc giải quyết vụ án.

Ý kiến của vị luật sư bào chửa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Diện tích 443,2m2, thuộc thửa đất số 654 có nguồn gốc là của bà Huỳnh Thị T (bà ngoại của bà Nguyễn Thị L) mua của ông Kim R năm 1941. Năm 1983, 1991 gia đình của bà Nguyễn Thị L có đăng ký kê khai theo quy định của pháp luật và đã được Ủy ban nhân dân huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phía bị đơn không có đơn yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Lâm Thị Đ nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Yêu cầu kháng cáo của ông Lâm Đức T là không có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ý kiến của vị luật sư bào chữa bảo vệ quyền, lợi hợp pháp cho bị đơn: Diện tích 443,2m2, thuộc thửa đất số 654 do gia đình ông Lâm Đức T sử dụng ổn định từ năm 1972 cho đến nay, không có ai tranh chấp. Việc đăng ký quyền sử dụng đất của nguyên đơn là không đúng trình tự thủ tục. Đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh thẩm tra theo báo cáo số 236/BC-UBND ngày 30/11/2016. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm công nhận diện tích 443,2m2 cho ông Lâm Đức T. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho bà Lâm Thị Đ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh về vụ án: Về thủ tục tố tụng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

Về nội dung: Diện tích 443,2m2  gia đình ông Lâm Đức T sử dụng từ năm1972. Trong quá trình sử dụng có cất nhà ở bên gia đình bà Nguyễn Thị L không có ai ngăn cản. Quá trình đăng ký kê khai cấp quyền sử dụng đất của nguyên đơn là chưa đúng trình tự thủ tục. Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có báo cáo việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện T là không đúng. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L. Công nhận diện tích 443,2m2 cho ông Lâm Đức T. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho bà Lâm Thị Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của các bên đương sự và kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng. Xét đơn kháng cáo của ông Lâm Đức T là trong hạn luật định nghĩ nên chấp nhận. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm NLQ8 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chết nên Tòa án đưa ông Ngô Tòng L và Ngô Phước L là người thừa kế của NLQ8 tham gia tố tụng với tư cách người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của NLQ8.

[2]. Về nội dụng: Xét yêu cầu kháng cáo của ông Lâm Đức T; Nhận thấy diện tích 443,2m2 đất đang tranh chấp nằm một phần trong diện tích 1.320m2, thửa 654, tờ bản đồ số 4, loại đất ở cây ăn quả, tọa lạc ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh. Năm 1972 gia đình ông Lâm Đức T chạy giặc từ Vĩnh Long đến cất nhà ở trên đất đến nay. Theo tư liệu đăng ký quyền sử dụng đất năm 1983 ông Nguyễn

Văn C đăng ký thửa 615, diện tích 1.200m2; Thửa 616, diện tích 2.800m2. Tư liệu năm 1991 bà Lâm Thị Đ đăng ký thửa số 654, diện tích 1.320m2 thửa số 656 diện tích 3.120m2.

Theo quy định tại khoản 1, mục IV Quyết định số 201-CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng chính phủ quy định về đăng ký và thống kê đất: “Để thực hiện thống nhất quản lý ruộng đất, tất cả các tổ chức và cá nhân sử dụng đất đều phải khai báo chính xác và đăng ký các loại ruộng đất mình đang sử dụng vào sổ địa chính của Nhà nước, Ủy ban nhân dân xã phải kiểm tra việc khai báo này”.

Theo quy định của Quyết định số 201-QĐ/ĐKTK ngày 14/7/1989 của Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý ruộng đất quy định điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: “Người sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi diện tích đất đang sử dụng được thể hiện đầy đủ trên bản đồ địa chính và được ghi vào sổ bộ địa chính”.

Qua hai lần kê khai đăng ký quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân xã H không kiểm tra lại thực tế việc kê khai đăng ký của ông Nguyễn Văn C và bà Lâm Thị Đ. Việc kê khai này chưa đúng quy định ông Nguyễn Văn C, bà Lâm Thị Đ không trực tiếp sử dụng đất mà đất do các hộ sử dụng trong đó có gia đình của ông Lâm Đức T sử dụng phần đất trên từ năm 1972.

Theo hồ sơ xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Lâm Thị Đ thì chỉ có đơn đăng ký quyền sử dụng đất ngày 25/7/1994. Theo tư liệu đăng ký đất năm 1983 thể hiện ông Nguyễn Văn C đăng ký kê khai thửa số 616, diện tích 2.800m2; thửa số 615, diện tích 1.200m2  ông Nguyễn Văn C chết các thừa kế của ông Nguyễn Văn C không có ủy quyền cho bà Lâm Thị Đ đăng ký kê khai thửa đất trên, gia đình của ông Lâm Đức T cũng đang ở trong thửa đất này cũng không có văn bản đồng ý cho bà Lâm Thị Đ đăng ký quyền sử dụng thửa đất này. Như vậy việc cấp quyền sử dụng đất diện tích 1.320m2, thửa 654 cho hộ bà Lâm Thị Đ là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 36 Luật đất đai năm 1993.

Theo báo cáo số 236/BC-UBND ngày 30/11/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh xác định Ủy ban nhân dân huyện T xác định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lâm Thị Đ là không đúng trình tự thủ tục, không đúng đối tượng. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lâm Đức T, chấp nhận quan điểm của kiểm sát viên, luật sư bào chữa cho bị đơn sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L, chấp nhận yêu cầu của ông Lâm Đức T về việc yêu cầu Tòa án công nhận diện tích đất 443,2m2 nằm trong diện tích 1.320m2, thửa 654, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh cho ông Lâm Đức T quản lý sử dụng. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 443,2m2 trong diện tích 1.320m2, thửa 654, tờ bản đồ số 4 mà Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho bà Lâm Thị Đ.

[3]. Về án phí, lệ phí thẩm định, định giá: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 3 Điều 36 Luật đất đai năm 1993; Điều 166, Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự; Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lâm Đức T.

Sửa bản án sơ thẩm số 06/2014/DSST ngày 30/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện T:

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị L khởi kiện đòi ông Lâm Đức T trả diện tích 443,2m2 nằm trong diện tích 1.320m2, thửa 654, tờ bản đồ số 4, mà hộ ông Lâm Đức T đang sử dụng.

2. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 443,2m2 nằm trong diện tích 1.320m2, thửa 654, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp O, xã H, huyện T mà Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho bà Lâm Thị Đ.

3. Công nhận cho ông Lâm Đức T được tiếp tục sử dụng diện tích 443,2m2, thửa 654, tờ bản đồ số 4, loại đất ở cây ăn quả, tọa lạc ấp O, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

- Hướng Đông giáp thửa 650 có số đo: 16,30m;

- Hướng Tây giáp đường đất có số đo: 18m;

- Hướng Nam giáp thửa 653 có số đo: 29,10m;

- Hướng Bắc giáp thửa 654 có số đo: 23,50m.

Vị trí diện tích 443,2m2, thửa 654 được xác định theo trích lục đo đạc theo hiện trạng ngày 13/5/2014 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện T kèm theo bản án này.

Ông Lâm Đức T có quyền đến Cơ quan có thẩm quyền kê khai đăng ký xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị L phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị L đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005075 ngày 07/5/2012 và biên lai thu số 0006799 ngày 25/9/2014 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T nên cấn trừ, còn lại 100.000 đồng hoàn trả cho bà Nguyễn Thị L. Hoàn trả 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho ông Lâm Đức T theo biên lai thu số 0006905 ngày 12/11/2014 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

5. Về lệ phí thẩm định, định giá: Bà Nguyễn Thị L phải chịu 1.74.850 đồng. Bà Nguyễn Thị L đã nộp tạm ứng đủ nên không phải nộp tiếp.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

380
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2017/DS-PT ngày 20/07/2017 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:109/2017/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Trà Vinh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về