Bản án 108/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 108/2021/HS-PT NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Vào ngày 26 tháng 1 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 130/TLPT-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Đắc Hải A, Nguyễn Đức G về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Do có kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 64/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Bị cáo kháng cáo:

1. Nguyễn Đắc Hải A, sinh ngày 11 tháng 8 năm 1999, tại Hà Nội; Nơi cư trú: thành phố Hà Nội. Chỗ ở: phường X, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Nguyễn Đắc T và bà Bùi Thị T; Tiền án, tiền sự: Không. Quá trình nhân thân: Ngày 10/6/2020 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 03 năm tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” (Theo bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HS-ST). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/8/2019; có mặt.

2. Nguyễn Đức G, sinh ngày 18 tháng 10 năm 1998, tại: Bắc G. Nơi cư trú: thôn Hải, xã Tân Thịnh, huyện Lạng G, tỉnh Bắc G. Chỗ ở: phường X, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Không. Con ông: Nguyễn Đức A và bà: Ngô Thị Y; có vợ: V Thị Y, có 01 con sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/8/2019; có mặt.

2. Những người tham gia tố tụng khác:

Ngoài ra, trong vụ án còn có 03 bị cáo, 89 những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào cuối tháng 8 năm 2019, Cơ quan điều tra (PC02) Công an tỉnh Thừa Thiên Huế phát hiện trên địa bàn thành phố H một tổ chức chuyên cho yay lãi nặng với số tiền lớn gây mất trật tự trị an trên địa bàn, Sau một thời gian thẩm tra, xác minh ngày 25/8/2019, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã tiến hành bắt giữ các đối tượng Nguyễn Đắc Hải A, Võ Bá Đ, Nguyễn Đức G, Đàm Quang T và Nguyễn Tiến Đ1 về hành vi “cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”, riêng Võ Bá Đ có thêm hành vi “trộm cắp tài sản”.

Căn cứ lời khai nhận của các bị cáo, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được thì diễn biến hành vi phạm tội của các bị cáo cụ thể như sau:

1. Hành vi phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự:

Do nắm bắt được nhu cầu của nhiều người dân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế cần vay vốn để làm ăn, mua sắm, tiếu dùng nhưng không muốn làm hồ sơ, thủ tục vay vốn tại các ngân hàng nên nhóm đối tượng do Nguyễn Đắc Hải A cầm đầu đã tổ chức một đường dây cho vay với lãi suất cao để thu lợi bất chính. Để thực hiện tội phạm các bị cáo đã in tờ rơi, card visit và các tờ quảng cáo cho vay tiền rồi đem đi dán ở các nơi công cộng, rãi ở chợ và các khu dân cư để thu hút người vay tiền, về thủ tục vay tiền các đối tượng chỉ yêu cầu người có nhu cầu vay tiền cung cấp bản sao giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu hoặc hóa đơn tiền điện, nước là có thể được xem xét cho vay tiền. Để đường dây cho vay lãi nặng này hoạt động các bị cáo khai nhận nguồn tiền để cho vay do một đối tượng tên là Lê H P, trú tại thành phố Hà Nội cung cấp. Đầu tháng 8 năm 2018, Nguyễn Đắc Hải A, Nguyễn Đức G, Võ Bá Đ cùng đối tượng tên P thuê nhà ở trọ tại địa bàn thị xã H và đường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đến đầu tháng 01 năm 2019, nhóm đối tượng này chuyển về thuê nhà tại 61/3 đường Dương Văn A, phường X, thành phố H. Sau đó do có thêm một số đối tượng như Đàm Quang T và Nguyễn Tiến Đ1 tham gia vào hoạt động của đường dây cho vay nên nhóm đối tượng này đã thuê phòng 210 nhà CT2 khu chung cư A, phường X, thành phố H để ở.

Để tổ chức cho vay lãi nặng hoạt động thông suốt các đối tượng đã phân công vị trí vai trò và nhiệm vụ của các bị cáo cụ thể như sau:

Nguyễn Đắc Hải A là người được P giao quản lý sổ sách của nhóm (từ ngày 30/7/2019) để tập hợp số liệu thu chi của toàn bộ đường dây cho vay trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, hàng tháng báo cáo kết quả thu chi, kết quả cho vay, tiền lãi và thanh toán tiền thu lời còn lại với P hằng ngày đồng thời là người quản lý két sắt cất giữ tiền hoạt động của cả nhóm. Ngoài ra Nguyễn Đắc Hải A còn trực tiếp giao dịch cho vay và thu nợ rất nhiều người để thu lợi.

Nguyễn Đức G là người đứng tên thuê nhà tại 61/3 Dương Văn A, quá trình đường dây cho vay hoạt động G là người trực điện thoại để khách vay liên hệ (G sử dụng hai số điện thoại 0943093885 “A. Bin” và 0866000345 “A. Tùng” được ghi trong các tờ rơi và card visit) sau đó khi có người điện thoại vay tiền G ghi chép lại thông tin người vay, số điện thoại báo cho A để A báo cho P sau đó P sẽ phân công cụ thể người sẽ liên hệ với khách để cho vay. Ngoài ra G còn trực tiếp giao dịch cho vay và thu nợ rất nhiều người để thu lợi.

Võ Bá Đ, Đàm Quang T và Nguyễn Tiến Đ1 là các đối tượng trực tiếp giao dịch với những người có nhu cầu vay tiền để cho vay, nhiệm vụ của các đối tượng này là: sau khi tiếp nhận thông tin từ A, P về người vay, T, Đ, Đ1 sẽ liên lạc và gặp trực tiếp người vay để biết nơi ở, nơi làm việc, nơi buôn bán của người vay. Sau đó thỏa thuận với người vay về số tiền cho vay, chu kỳ vay, mức trả góp hằng ngày và chi phí xăng xe,... ngoài ra một số đối tượng trực tiếp giao dịch với người vay tiền còn tự đặt ra khoản thu phí hồ sơ để thu thêm và hưởng lợi bất chính riêng (với mức từ 5% đến 10% khoản tiền cho vay).

Việc phân công địa bàn cho vay được xác định: Nguyễn Đắc Hải A cho vay trên địa bàn thị xã H và huyện P Điền; Nguyễn Đức G cho vay trên địa bàn thành phố H; Võ Bá Đ và Đàm Quang T cho vay trên địa bàn thành phố H và huyện Phú Vang; Nguyễn Tiến Đ1 cho vay trên địa bàn thị xã Hương Thủy và huyện Phú L. Hằng tháng các bị cáo khai nhận được đối tượng tên P trả tiền công cụ thể như sau: Nguyễn Đắc Hải A từ 07 đến 10 triệu đồng; Đàm Quang T 05 triệu đồng; Võ Bá Đ 05 triệu đồng; riêng Nguyễn Tiến Đ1 chưa được trả lương (do mới tham gia), chỉ được hưởng phí hồ sơ và tiền thu thêm của khách hàng.

Trong quá trình đường dây cho vay hoạt động P là người chi trả toàn bộ các khoản tiền ăn ở, tiền thuê nhà, tiền in ấn tờ rơi và chi phí tiền xăng xe đi thu tiền. Hằng tháng sau khi cân đối thu, chi P trả tiền công cho các đối tượng, phần lợi nhuận còn lại P thu giữ hưởng lợi riêng. Theo lời khai của các bị cáo đối tượng tên P đã trực tiếp điều hành đường dây cho vay lãi nặng cho đến tháng 7/2019 thì giao lại cho Nguyễn Đắc Hải A quản lý. Hằng tháng P thỏa thuận chỉ đến nơi các bị cáo đang ở trọ một lần để tính toán thu chi với từng bị cáo và thu phần lợi nhuận của mình. Để đối phó với cơ quan chức năng P chỉ đạo các đối tượng trong đường dây khi lập giấy vay tiền đều ghi nội dung mua điện thoại di động, mua xe máy thay vì viết giấy vay nợ. Để có phương tiện đi cho vay và thu nợ, P đã mua xe máy BKS:

64L1-2299 giao cho Nguyễn Đắc Hải A; mua xe máy BKS: 66C1-002.12 giao cho Nguyễn Đắc Hải A; mua xe máy BKS: 74E1-076.64 giao cho Nguyễn Đức G sử dụng. Khi có người vay quá hạn trả nợ, các đối tượng đã sử dụng thủ đoạn liên tục gọi điện, nhắn tin đe dọa tạo áp lực để người vay trả nợ hoặc vay lại lượt vay mới để đòi nợ khoản vay cũ.

Căn cứ vào các giấy vay nợ, sổ theo dõi vay tiền và lời khai của các bị cáo xác định từ đầu tháng 8 năm 2018 đến ngày bị bắt (25/8/2019), tổ chức cho vay lãi nặng này đã cho hàng trăm lượt người trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế vay tiền với lãi suất từ 121,67% đến 304,17% một năm. Về hoạt động cho vay lãi nặng của từng đối tượng được xác định như sau:

1.1. Nguyễn Đắc Hải A bắt đầu hoạt động cho vay trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ ngày 02/8/2018. Tính đến ngày 24/8/2019, Nguyễn Đắc Hải A đã cho 559 lượt người trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế vay tiền. Mức cho vay thấp nhất 3.000.000 đồng cao nhất là 25.000.000 đồng/lượt vay; lượt vay ngắn hạn nhất là 30 ngày; lượt vay dài ngày nhất là 60 ngày. Tùy theo đối tượng và thỏa thuận nên mức lãi suất không cố định nhưng tất cả đều có lãi suất vượt quá 100%/năm. Tổng số tiền đã dùng cho vay của 559 lượt này là 4.853.000.000 đồng. Tổng số tiền người vay đã trả (cả gốc và lãi) là 5.500.164.000 đồng, số tiền lãi người vay đã trả là 929.406.666 đồng. Trong đó phần lãi vượt mức 20%/năm là 816.485.297 đồng.

Ngoài ra Nguyễn Đắc Hải A còn tự thu thêm đối với 98 lượt vay để hưởng lợi riêng 102.900.000 đồng phí hồ sơ và 2.800.000 đồng tiền xăng xe.

Sau khi Nguyễn Đắc Hải A bị bắt giữ căn cứ các giấy vay tiền và sổ sách theo dõi xác định trước khi bị bắt A còn đang cho 47 người trên địa bàn vay tiền nhưng chưa trả đủ (Tổng số tiền cho vay 476.000.000 đồng, trong đó người vay đã trả tiền gốc cộng lãi vượt 20%/ năm cộng các loại phí là 282.000.000 đồng. Còn lại chưa trả tiền gốc là 194.000.000 đồng). Cơ quan điều tra tiến hành xác minh và phát hành thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đã xác định được 05 người vay tiền với lãi suất cao nhưng chưa trả đủ cả gốc và lãi theo thỏa thuận là:

Phan Văn H, trú tại P A, P Đ, Thừa Thiên Huế số tiền đã vay là 5.000.000 đồng, số tiền đã trả là cả gốc và lãi là 3.300.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả cần phải nộp lại 1.260.000 đồng (tính đến ngày vụ án được phát hiện và đã khấu trừ tiền gốc đã trả cộng phần trăm lãi vượt 20%/năm và các khoản phí tự thu).

Lê Trọng P, trú tại Thừa Thiên Huế số tiền đã vay là 60.000.000 đồng, số tiền đã trả cả gốc và lãi là 53.100.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả theo thỏa thuận là 3.968.800 đồng (tính đến ngày vụ án được phát hiện và đã khấu trừ tiền gốc đã trả cộng phần trăm lãi vượt 20%/ năm và các khoản phí tự thu).

Nguyễn Thị T, trú tại Thừa Thiên Huế số tiền đã vay là 50.000.000 đồng, số tiền đã trả cả gốc và lãi là 45.500.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả theo thỏa thuận là 997.260 đồng (tính đến ngày vụ án được phát hiện và đã khấu trừ tiền gốc đã trả cộng phần trăm lãi vượt 20%/năm và các khoản phí tự thu).

Đoàn S, trú tại thành phố H số tiền đã vay là 70.000.000 đồng, số tiền đã trả cả gốc và lãi là 62.500.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả theo thỏa thuận là 6.869.863 đồng (tính đến ngày vụ án bị phát hiện và đã khấu trừ phần lãi vượt 20%/năm).

Lê Thị H, trú tại Thừa Thiên Huế số tiền đã vay là 34.000.000 đồng, số tiền đã trả cả gốc và lãi là 30.800.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả theo thỏa thuận là 2.529.041 đồng (tính đến ngày vụ án được phát hiện và đã khấu trừ tiền gốc đã trả cộng phần trăm lãi vượt 20%/năm và các khoản phí tự thu).

Còn lại 42 lượt người vay do không có tài liệu chứng minh họ tên, địa chỉ, nơi làm việc, buôn bán nên cơ quan điều tra chưa xác minh được nhằm thu hồi số tiền vay nhưng chưa trả của những người này.

Cũng qua công tác điều tra, xác minh và lời khai của Nguyễn Đắc Hải A, cơ quan điều tra đã xác định có 17 người trực tiếp vay nhiều lượt từ Nguyễn Đắc Hải A nhưng họ đã trả đủ cả gốc và lãi cũng như số tiền mà A đã tự thu thêm để hưởng lợi cụ thể như sau:

STT

Họ tên khách hàng vay

Số tiền vay (đồng)

Tổng số tiền đã trả (đồng)

T lợi bất chính (đồng)

Số tiền trả lại cho khách vay

Tiền Lãi vượt 20%

Phí tự thu

Phí cho vay

Phí thu thêm

1

Trần Thị Kim A

183,000,000

204,150,000

30,047,466

7,700,000

-

24,872,466

2

Nguyễn Thị L

17,000,000

20,400,000

3,093,151

650,000

-

3,743,151

3

Lê Thị L

190,000,000

210,600,000

31,253,425

7,700,000

-

24,453,425

4

Lê Hữu T

10,000,000

12,000,000

1,726,027

250,000

-

1,976,027

5

Nguyễn Thị T T (Không có mặt ở địa phương)

28,000,000

34,000,000

5,478,356

-

-

5,478,356

6

Nguyễn Thành Đ

145,000,000

145,900,000

20,319,406

6,750,000

-

3,652,740

7

Phan Thị G

26,000,000

29,000,000

4,282,648

1,150,000

-

3,599,315

8

Nguyễn Thị N

66,000,000

74,600,000

10,996,621

3,400,000

-

10,563,288

9

Lê Thị X

125,000,000

134,580,000

20,614,247

9,750,000

-

16,264,247

10

Hồ Thị T L

50,000,000

48,500,000

7,020,320

5,000,000

-

2,436,986

11

Hồ Thị T H

93,000,000

102,100,000

14,892,831

4,750,000

-

11,726,164

12

Trần T U

225,000,000

250,200,000

35,987,671

8,500,000

-

27,987,671

13

Đặng Thị Ngọc T

74,000,000

84,800,000

12,507,032

3,300,000

2,800,000

15,273,699

14

Nguyễn Thị Thanh N

240,000,000

262,650,000

38,846,233

20,000,000

-

37,721,233

 

15

Nguyễn N

60,000,000

66,900,000

9,928,082

3,000,000

-

8,678,082

16

Dương Bá P

94,000,000

105,400,000

15,472,922

4,600,000

-

13,989,589

17

Lê Thị Thanh X

50,000,000

59,250,000

8,576,370

2,500,000

-

10,451,370

Trong đó có những người sau đây đề nghị bị cáo phải trả lại cho họ khoản tiền thu lãi vượt mức 20%/năm theo quy định của pháp luật và các khoản tự thu thêm: Lê Thị L, Đặng Thị Ngọc T và Nguyễn Thị Thanh N. Những người còn lại không đề nghị nhận lại khoản thu lãi đã nộp vượt mức 20%/năm theo quy định của pháp luật và các khoản thu thêm. (BL: 570-987) 1.2. Nguyễn Đức G tham gia đường dây cho vay lãi nặng từ ngày 20/01/2019. Tính đến ngày 24/8/2019, Nguyễn Đức G đã cho 501 lượt người trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế vay tiền. Mức cho vay thấp nhất là 3.000.000 đồng cao nhất là 50.000.000 đồng. Lượt vay ngắn hạn nhất là 30 ngày, dài nhất là 60 ngày. Tùy theo đối tượng và thỏa thuận nên mức lãi suất không cố định nhưng tất cả đều có lãi suất vượt quá 100% năm. Tổng số tiền đã dùng cho vay của 501 lượt là 4.749.000.000 đồng. Tổng số tiền người vay đã trả (cả gốc và lãi) là 5.374.700.000 đồng. Số tiền lãi người vay đã trả là 907.406.667 đồng. Trong đó phần lãi vượt mức 20%/ năm là 796.268.584 đồng.

Ngoài ra G còn thu thêm đối với 170 lượt người vay để hưởng lợi riêng 186.700.000 đồng phí hồ sơ và 74.250.000 đồng tiền xăng xe (thu của 63 lượt vay).

Sau khi Nguyễn Đức G bị bắt giữ căn cứ các giấy vay tiền và sổ sách theo dõi xác định trước khi bị bắt G còn đang cho 35 người trên địa bàn vay tiền nhưng chưa trả đủ (Tổng tiền cho vay là 327.000.000 đồng, trong đó người vay đã trả tiền gốc cộng lãi vượt 20% cộng các loại phí là 168.090.000 đồng. Còn lại chưa trả tiền gốc là 158.910.000 đồng). Cơ quan điều tra tiến hành xác minh và phát hành thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đã xác định được 04 người vay tiền với lãi suất cao nhưng chưa trả đủ cả gốc và lãi theo thỏa thuận là:

Nguyễn Đăng Trường V, trú tại thành phố H, Thừa Thiên Huế số tiền đã vay là 92.000.000 đồng, số tiền đã trả cả gốc và lãi là 83.400.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả cần phải nộp lại 2.283.014 đồng (tính đến ngày vụ án được phát hiện và đã khấu trừ phân trăm lãi vượt 20%/ năm).

Đỗ Văn Đ1, trú tại Thừa Thiên Huế số tiền đã vay là 105.000.000 đồng, số tiền đã trả cả gốc và lãi là 93.000.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả cần phải nộp lại 5.298.630 đồng (tính đến ngày vụ án được phát hiện và đã khấu trừ tiền gốc đã trả cộng phần trăm lãi vượt 20%/năm và các khoản phí tự thu).

Trần Xuân N, trú tại A Lai, Hương P, H, Thừa Thiên Huế số tiền đã vay là 15.000.000 đồng, số tiền đã trả cả gốc và lãi là 9.450.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả cần phải nộp lại 3.322.603 đồng (tính đến ngày vụ án được phát hiện và đã khấu trừ tiền gốc đã trả cộng phần trăm lãi vượt 20%/ năm và các khoản phí tự thu).

Nguyễn Thị V, trú tại thành phố H, Thừa Thiên Huế số tiền đã vay là 13.000.000 đồng, số tiền đã trả cả gốc và lãi là 9.900.000 đồng, số tiền vay nhưng chưa trả cần phải nộp lại 2.364.384 đồng (tính đến ngày vụ án được phát hiện và đã khấu trừ tiền gốc đã trả cộng phần trăm lãi vượt 20%/năm và các khoản phí tự thu).

Còn lại 31 lượt người vay do không có tài liệu chứng minh họ, tên, địa chỉ, nơi làm việc, buôn bán nến cơ quan điều tra chưa xác minh được nhằm thu hồi số tiền vay nhưng chưa trả của những người này.

Cũng qua công tác điều tra, xác minh và lời khai của Nguyễn Đức G, cơ quan điều tra đã xác định được 21 người đã trực tiếp vay nhiều lượt tiền từ G, sau đó họ đã trả đủ cả gốc và lãi cũng như số tiền mà G đã thu thêm để hưởng lợi cụ thể như sau:

STT

Họ tên khách hàng vay

Số tiền vay (đồng)

Tổng số tiền đã trả (đồng)

T lơi bất chính (đồng)

Số tiền trả lại cho khách vay

Tiền lãi vượt 20%

Phí tự thu

Phí cho vay

Phí thu thêm

1

Võ Văn P

110,000,000

119,500,000

17,516,667

9,800,000

-

16,900,000

2

Võ Văn L

25,000,000

26,250,000

3,895,548

2,000,000

 

2,770,548

3

Phạm Thị T T

149,000,000

175,900,000

25,705,708

12,700,000

-

35,989,041

4

Nguyễn Thị Minh T

95,000,000

94,800,000

14,068,493

9,500,000

-

7,568,493

5

Võ Quang P

20,000,000

24,000,000

3,561,644

2,000,000

-

5,561,644

6

Hoàng Thị T

35,000,000

36,240,000

5,212,603

-

-

412,603

7

Huỳnh Thị L

26,000,000

27,200,000

4,017,169

1,900,000

-

2,583,836

8

Tràn Công N

25,000,000

26,250,000

3,895,548

2,500,000

-

3,270,548

9

Hoàng Thị N

34,000,000

31,850,000

4,696,826

3,400,000

-

638,493

10

Trần Thị Như Y

85,000,000

102,000,000

15,082,192

2,500,000

-

17,582,192

11

Trần Thị Hữu D

1,356,000,000

1,423,200,000

201,864,110

95,200,000

61,950,000

81,357,534

12

Hoàng Ngọc P

5,000,000

6,000,000

890,411

500,000

-

1,390,411

 

13

Nguyễn Duy P

40,000,000

48,000,000

7,092,603

4,000,000

 

11,092,603

14

Hoàng Thị Mỹ H

14,000,000

14,000,000

2,064,840

1,000,000

-

731,507

15

Thái Thị H

25,000,000

30,000,000

4,452,055

2,000,000

1,500,000

7,952,055

16

Văn Phạm Kiều T

10,000,000

10,050,000

1,491,438

1,000,000

900,000

1,766,438

17

Nguyễn Thị P

15,000,000

15,600,000

2,315,068

 

900,000

1,215,068

18

Nguyễn Thị T

35,000,000

42,000,000

6,232,877

3,500,000

-

9,732,877

19

Phạm Thị A

25,000,000

24,300,000

3,606,164

2,500,000

-

1,356,164

20

Dương Văn P

10,000,000

12,000,000

1,835,616

1,000,000

-

2,835,616

21

Trần Thị Bình Y

135,000,000

150,600,000

22,349,315

10,800,000

8,100,000

31,749,315

Trong đó có những người sau đây đề nghị bị cáo phải trả lại cho họ khoản tiền thu lãi vượt mức 20%/năm theo quy định của pháp luật và các khoản tự thu thêm: Trần Thị Như Ý, Hoàng Ngọc P, Thái Thị H và Trần Thị Bình Y. Những người còn lại không đề nghị nhận lại khoản lãi đã nộp vượt mức 20%/năm theo quy định của pháp luật và các khoản thu thêm. (BL: 987-1.310).

Đây là một đường dây cho vay lãi nặng do một nhóm tội phạm lấy hoạt động cho vay lãi nặng làm nghề chính. Quá trình hoạt động, các bị cáo có sự phân công, câu kết tương trợ lẫn nhau để cùng nhau hưởng lợi từ việc cho vay lãi nặng. Do thời gian tham gia vào đường dây cho vay lãi nặng khác nhau nên số tiền đã cho vay và tiền thu lợi bất chính mà các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự cụ thể như sau:

- Nguyễn Đắc Hải A cùng các đồng phạm trong tổ chức cho vay lãi nặng từ ngày 11/8/2018 đến ngày 24/8/2019 đã trực tiếp cho 1.492 lượt người trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế vay tiền với lãi suất cao với số tiền đã cho vay là 12.444.000.000 đồng. T lợi bất chính số tiền là 2.081.913.320 đồng (trong đó phần thu lợi bất chính từ việc cho vay của A là 816.485.297 đồng), ngoài ra Nguyễn Đắc Hải A còn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các khoản tự thu thêm trong quá trình cho vay là 102.900.000 đồng phí hồ sơ và 2.800.000 đồng phí xăng xe. Tổng cộng A đã thu lợi bất chính trong việc cho vay lãi nặng là 922.185.297 đồng.

- Nguyễn Đức G cùng các đồng phạm trong tồ chức cho vay lãi nặng từ ngày 20/01/2019 đến ngày 24/8/2019. Trong thời gian này cả nhóm đã cho nhiều người vay tiền với lãi suất cao với số tiền đã cho vay là 10.888.000.000 đồng. T lợi bất chính là 1.763.125.579 đồng (trong đó phần thu lợi bất chính từ việc cho vay của G là 796.268.584 đồng), ngoài ra G còn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các khoản tự thu thêm trong quá trình cho vay là 186.700.000 đồng phí hồ sơ và 74.250.000 đồng tiền phí xăng xe. Tổng cộng G đã thu lợi bất chính từ việc cho vay lãi nặng là 1.057.218.584 đồng.

- Võ Bá Đ cùng các đồng phạm trong tổ chức cho vay lãi nặng từ ngày 16/02/2019 đến ngày 24/8/2019. Trong thời gian này cả nhóm đã cho nhiều người vay tiền với lãi suất cao với sp tiền đã cho vay là 10.684.000.000 đồng. T lợi bất chính là 1.703.342.497 đồng (trong đó phần thu lợi bất chính từ việc cho vay của Đ là 454.582.374 đồng), ngoài ra Đ còn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các khoản tự thu thêm trong quá trình cho vay là 31.200.000 đồng phí hồ sơ và 600.000 đồng tiền phí xăng xe. Tổng cộng Đ đã thu lợi bất chính tự việc cho vay lãi nặng là 486.382.374 đồng.

- Đàm Quang T cùng các đồng phạm trong tổ chức cho vay lãi nặng từ ngày 01/8/2019 đến ngày 24/8/2019. Trong thời gian này cả nhóm đã cho nhiều người vay tiền với lãi suất cao với số tiền đã cho vay là 2.678.000.000 đồng. T lợi bất chính là 150.528.138 đồng (trong đó phần thu lợi bất chính từ việc cho vay của T là 11.110.502 đồng), ngoài ra T còn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các khoản tự thu thêm trong quá trình cho vay là 9.000.000đ phí hồ sơ và 1.300.000 đồng tiền phí xăng xe. Tổng cộng T đã thu lợi bất chính từ việc cho vay lãi nặng là 21.410.502 đồng.

- Nguyễn Tiến Đ1 cùng các đồng phạm trong tổ chức cho vay lãi nặng từ ngày 13/8/2019 đến ngày 24/8/2019. Trong thời gian này cả nhóm đã cho nhiều người vay tiền với lãi suất cao với số tiền đã cho vay là 1.958.000.000 đồng. T lợi bất chính là 70.670.531 đồng (trong đó phần thu lợi bất chính từ việc cho vaỵ của Đ1 là 3.466.562 đồng), ngoài ra Đ1 còn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các khoản tự thu thêm trong quá trình cho vay là 1.500.000 đồng phí hồ sơ và 3.880.000 đồng tiền phí xăng xe. Tổng cộng Đ1 đã thu lợi bất chính từ việc cho vay lãi nặng là 8.846.562 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2020/HS-ST ngày 09/11/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

[1] Về tội danh: Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Đắc Hải A, Nguyễn Đức G, Võ Bá Đ, Đàm Quang T và Nguyễn Tiến Đ1 phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Ngoài ra, bị cáo Võ Bá Đ còn phạm thêm tội: “Trộm cắp tài sản”.

[2] Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 2, Điều 201; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Đắc Hải A 02 năm 02 tháng (hai năm hai tháng) tù về tội: “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.

Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 03 (ba) năm tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HSST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 05 năm 02 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 25/8/2019 là ngày bị tạm giữ, tạm giam của bản án số 25/2020/HS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Áp dụng khoản 2, Điều 201; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Đức G 01 năm 05 tháng (một năm năm tháng) tù về tội: “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 27/8/2019.

Ngoài ra Bản án còn tuyên quyết định phần hình phạt đối với các bị cáo khác và về trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/11/2020, Bị cáo Nguyễn Đắc Hải A và Nguyễn Đức G cùng làm đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Đắc Hải A vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với các lý do: Bị cáo có hoàn gia đình cảnh khó khăn; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận cho hành vi vi phạm của mình. Do vậy đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Riêng bị cáo Nguyễn Đức G tự nguyện rút đơn kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Về nội dung: Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa đã có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo Nguyễn Đắc Hải A và Nguyễn Đức G phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo A không cung cấp được chứng cứ nào mới, nên đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo A. Đối với việc rút đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức G, đề nghị HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Đức G tự nguyện rút đơn kháng cáo. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Đắc Hải A tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo G, những người bị hại, người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nên đã có đủ căn cứ xác định: Trong thời gian từ đầu tháng 8 năm 2018 đến ngày 24/8/2019, mặc dù bản thân không có giấy phép hoạt động trong lĩnh vực tín dụng nhưng bị cáo Nguyễn Đắc Hải A và các đồng phạm là Võ Bá Đ, Nguyễn Đức G, Đàm Quang T và Nguyễn Tiến Đ1 thông qua đối tượng Lê H P (hiện đang bị truy nã) đã đứng ra tổ chức hoạt động cho vay lãi nặng bằng cách in tờ rơi, card visit và các tờ quảng cáo cho vay tiền rồi đem đi dán ở các nơi công cộng để cho nhiều người có nhu cầu cần vay tiền vay với lãi suất từ 121,67% đến 304,17%/năm. Qua một năm hoạt động trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế các bị cáo đã tổ chức cho 1.492 lượt người vay với tổng số tiền 12.444.000.000đ thu lợi bất chính vượt mức 20% năm là 2.081.913.319đ; thu tiền phí hồ sơ 331.300.000đ và phí xăng xe là 22.830.000đ. Như vậy các bị cáo đã thừa nhận đã cho vay với lãi suất gấp 5 lần lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đ trở lên. Với hành vi và hậu quả nêu trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 64/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quy kết các bị cáo Nguyễn Đắc Hải A và Nguyễn Đức G phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Đắc Hải A 02 năm 02 tháng tù, bị cáo Nguyễn Đức G 01 năm 05 tháng tù.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đắc Hải A;

HĐXX thấy rằng: Bản thân bị cáo A tham gia tội phạm từ 02/8/2018 đến 24/8/2019 kéo dài trên 01 năm, được đối tượng P giao công việc quản lý sổ sách, két sắt và báo cáo tài chính hằng ngày cho P; ngoài ra còn trực tiếp cho vay 559 lượt người với số tiền 4.853.000.000đ, nhận lại gốc và lãi là 5.500.164.000đ; số tiền lãi là 929.406.666đ, trong đó phần lãi vượt mức 20%/năm là 816.485.297đ. Bên cạnh đó còn tự thu thêm phí hồ sơ của 98 trường hợp cho vay với số tiền 102.900.000đ và phí xăng xe 2.800.000đ. Như vậy bị cáo A đã có hành vi phạm tội với số tiền thu lợi bất chính là 922.185.297đ (816.485.297đ +102.900.000đ +2.800.000đ). Khoản 2 Điều 201 BLHS quy định “Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000đ trở lên ....thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo các điểm b, s khoản 1 Điều 51 và các tình tiết tăng nặng như phạm tội có tổ chức, phạm tội 02 lần trở lên theo điểm a, g khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt bị cáo với mức án 02 năm 02 tháng tù là không nặng. Tuy nhiên, so sánh với bị cáo G, cả hai đều phạm tội tương tự như nhau, nhưng bị cáo A bị xử phạt cao hơn nhiều so với bị G là không tương xứng, nên giảm nhẹ cho bị cáo A một phần hình phạt.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đắc Hải A kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tuyên xử: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đắc Hải A về việc đề nghị giảm nhẹ hình phạt; sửa phần hình phạt Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đắc Hải A phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.

- Áp dụng khoản 2, Điều 201; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Đắc Hải A 01 (một) năm 11 (mười một) tháng tù về tội: “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 03 (ba) năm tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 04 (bốn) năm 11 (mười một) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 25/8/2019 là ngày bị tạm giữ, tạm giam của bản án số 25/2020/HS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

2. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Đức G.

3. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Đắc Hải A và Nguyễn Đức G không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm .

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (26/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

408
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

Số hiệu:108/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về