Bản án 108/2021/HNGĐ-ST ngày 06/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 108/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 34/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp“ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lương Thị Thu H, sinh năm 1985. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn T, sinh năm 1978. Có mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện Quế Sơn, Quảng Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/3/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn - chị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 85 ngày 09/7/2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống với nhau không hợp, do anh T tính tình nóng nảy, hay ghen tuông, gia trưởng, bảo thủ về chuyện tiền bạc. Nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống nên chị yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Có 03 cháu tên là Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 02/12/2003;

Nguyễn Thị Ngọc H1, sinh ngày 19/10/2009 và Nguyễn Thiên P, sinh ngày 05/8/2016. Chị yêu cầu được nuôi cả 03 con và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 500.000 đồng/tháng, kể từ tháng 08/2021.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có. Chị không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Tại bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn - anh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất với chị H về thời gian và điều kiện kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng khoảng thời gian gần đây, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và cải vã. Anh yêu cầu được đoàn tụ để nuôi dưỡng con cái.

Về con chung: Có 03 con chung như chị H trình bày. Trường hợp ly hôn, các con có nguyện vọng được ở với chị H thì anh đồng ý giao con cho chị H nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi mỗi cháu 500.000 đồng/tháng, kể từ tháng 08/2021.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có. Anh không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh T cư trú tại thôn T, xã Q, huyện QS, Quảng Nam. Chị H yêu cầu ly hôn và nuôi con nên quan hệ pháp luật giải quyết là tranh chấp về “ly hôn, nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh T tự nguyện kết hôn, được Uỷ ban nhân dân xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 85 ngày 09/7/2003 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, chị H và anh T đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân theo chị H trình bày là do anh T gia trưởng, nóng nảy và ghen tuông. Anh T thừa nhận do vợ chồng có mâu thuẫn và cải vã. Tại phiên tòa, chị H cương quyết ly hôn. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

[3]. Về con chung: Chị H yêu cầu được nuôi cả 03 con. Anh T đồng ý giao con cho chị H nuôi dưỡng nếu các con có nguyện vọng ở với mẹ.

Theo Biên bản xác minh ngày 09/3/2021, UBND xã Quế Hiệp cung cấp: “Hiện nay, vợ chồng chị H có nhà riêng, chị H làm nghề cắt tóc, anh T làm thợ cơ khí. Mức thu nhập hàng tháng của chị H, anh T bao nhiêu UBND xã Quế Hiệp không rõ”. Như vậy, chị H và anh T có nghề nghiệp ổn định, đảm bảo việc nuôi con. Tại các bản tự khai, các cháu H, H1 đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Hiện nay, cháu P còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ hơn. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các cháu, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, giao các cháu H, H1, P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H và anh T thống nhất mức cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 500.000 đồng/01 cháu, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 08/2021. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự.

[4]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Không có.

[5]. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị H phải chịu theo quy định của pháp luật. Về án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Anh T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị Thu H về tranh chấp "ly hôn, nuôi con".

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị Thu H và anh Nguyễn T.

2. Về con chung: Giao các cháu Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 02/12/2003; Nguyễn Thị Ngọc H1, sinh ngày 19/10/2009 và Nguyễn Thiên P, sinh ngày 05/8/2016 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 03 con mỗi tháng 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng (500.000 đồng/01 cháu/tháng), thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 08 năm 2021 đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở. Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Lương Thị Thu H phải chịu là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 300.000 đồng mà chị đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001762 ngày 04 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Anh T phải chịu là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (06 - 7 - 2021), đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2021/HNGĐ-ST ngày 06/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:108/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về