TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 25 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 109/2020/TLST- HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Hoàng D, tên gọi khác: D, sinh năm 1993 tại Sóc Trăng. Nơi cư trú: đường DKH, khóm B2, phường H, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Có vợ và 01 con, sinh năm 2019; tiền án: 01 lần, vào ngày 14/6/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố ST tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 12/02/2018 chưa được xóa án tích; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ ngày 05/8/2020 đến ngày 08/8/2020 chuyển tạm giam cho đến nay (có mặt).
- Bị hại: Ông Thạch H, sinh năm 1992. Địa chỉ: đường XL, khóm S, phường B2, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Người làm chứng: Ông Lâm C, sinh năm 1986. Địa chỉ: khóm B, phường H, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 23 tháng 9 năm 2019, Nguyễn Hoàng D (D) đến nhà của Lâm Quang V (V) tại khóm B, phường H, thành phố ST để uống rượu, cùng với D có V, Lâm C (C), Thạch H (H) và Lâm Châu Kh (Kh). Khi uống được một lúc thì D ra về. Khi về tới nhà thì D phát hiện bị mất giấy cầm đồ nên D điều khiển xe quay lại nhà của V để tìm nhưng không thấy. Lúc này C, H và Kh vẫn còn uống rượu. Trong lúc tìm kiếm thì giữa D và H có lời lẻ thô tục chửi nhau và định đánh nhau nhưng được mọi người can ngăn, sau đó D bỏ ra về. Lúc D bỏ về nhà của D thì C rủ H và Kh qua nhà của C tại khóm B, phường H, thành phố ST để uống tiếp.
Khi D về nhà thì D lấy 02 cây dao tự chế sau đó rủ thêm L (chưa rõ họ tên và địa chỉ) và một người nam thanh niên là bạn của L (chưa rõ họ tên và địa chỉ) rồi cùng nhau đến nhà của C để đánh nhau với H. Cả 03 đến nhà của C, D cầm 01 cây dao tự chế và đưa cho L cầm 01 cây, sau đó đi vào nhà của C. Do thấy D và L có cầm dao, khi đi đến khu vực nhà trước thì C ngăn cản lại. Nhưng sau đó nghe tiếng của H ở khu vực nhà sau nên D cầm dao đi xuống khu vực nhà sau tìm H. Khi thấy D, H xông vào chụp lấy cây dao trên tay của D làm cho cây dao rớt xuống đất. D khom người xuống nhặt, vừa nhặt được dao thì H dùng 02 tay từ phía sau ôm chặt người của D. Trong lúc bị H ôm, D gọi cho L biết là H đang ở khu vực ở nhà sau. Khi nghe D gọi, L chạy vô khu vực nhà sau, khi thấy H, L dùng dao chém trúng vào vùng cẳng tay phải của H 01 vết thương. Sau khi bị thương, H ngồi xuống nhưng 02 tay vẫn còn ôm D. Do tay bị thương, nên H nới lỏng tay ra, sẳng tay còn cầm dao nên D dơ dao lên chém xuống trúng vào chân phải của H 01 vết thương. Sau đó H buông D ra, D và L bỏ ra ngoài rồi lên xe chạy về hướng ra Quốc lộ 1. Đi được 01 đoạn thì L đưa cây dao lại cho D, D cầm 02 cây dao chạy về nhà của D. Khi đến đoạn gần nhà, D ném 02 cây dao xuống sông gần đó. Còn H sau khi bị chém, được C và Kh đưa đến Bệnh viện cấp cứu và trình báo với Công an. Sau đó Công an mời D lên làm việc và D thừa nhận toàn bộ hành vi gây thương tích cho bị hại H như đã nêu trên.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 67/TgT-PY ngày 02/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Sóc Trăng, kết luận bị hại Thạch H:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
+ Sẹo chếch ngang mặt ngoài 1/3 trên cẳng tay (P), kích thướt 11cm x 0,8cm. Chức năng cẳng tay (P) bị hạn chế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện là 13%:
+ Sẹo phần mềm mặt trong 1/3 giữa cẳng chân (P), kích thướt: 2,5cm x 0,4cm. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 02%.
- Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tính theo Thông tư số 20 ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế hiện tại là: 15%.
- Kết luận khác:
+ Tổn thương do vật sắc gây nên.
+ Tổn thương gây ảnh hưởng chức năng cẳng tay phải.
+ Tổn thương không ảnh hưởng thẩm mỹ.
Về vật chứng: trong quá trình tra, Cơ quan điều tra đã tổ chức đưa D đến nơi mà D đã ném bỏ 02 cây dao để thu giữ, tuy nhiên không thu giữ được, do D khai ném xuống sông nhưng không nhớ ném ở vị trí nào.
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị hại Thạch H yêu cầu D bồi thường tiền công lao động trong thời gian điều trị tại nhà là 27.000.000 đồng nhưng D chưa bồi thường.
Tại bản cáo trạng số 110/CT-VKS-TPST ngày 13/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng D về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng giữ nguyên quyết định truy tố về hành vi của bị cáo Nguyễn Hoàng D và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng D phạm tội “Cố ý gây thương tích”; áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do vậy, đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại Thạch H không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không đặt ra xem xét.
- Bị hại Thạch H xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, con còn nhỏ và không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hoàng D khai nhận: bị cáo không bị mắc bệnh lý về tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, vào khoảng hơn 16 giờ 00 phút, ngày 23/9/2019 chỉ vì mâu thuẫn nhỏ với bị hại, bị cáo cùng với L đến nhà khóm B, phường H, thành phố ST, mỗi người cầm một cây dao tự chế dài khoảng 80cm, có lưỡi bằng kim loại dài khoảng 60 cm, bị cáo chém bị hại Thạch H 01 dao trúng chân phải của H, L thì chém bị hại Thạch H 01 dao trúng vào tay phải của H, sau khi chém bị hại xong 02 cây dao bị cáo đã ném xuống sông gần nhà bị cáo không tìm lại được, bị cáo có nhận được kết luận giám định thương tích bị cáo thống nhất không có ý kiến, cáo trạng truy tố bị cáo là đúng với hành vi của bị cáo và nay bị cáo đã thấy sai và xin giảm nhẹ một phần hình phạt.
[3] Lời thừa nhận hành vi của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại trong quá trình điều tra, phù hợp với các chứng cứ và tài liệu mà cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, bị cáo là công dân Việt Nam, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đã dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại Thạch H 15%, hành vi này của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 110/CT-VKS-TPST ngày 13/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố bị cáo theo tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trái pháp luật đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, ngoài ra còn gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm do hành vi phạm tội của mình gây ra là phù hợp với quy định pháp luật. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thì thấy: vào ngày 14/6/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 12/02/2018 chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm là tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cân nhắc về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm nêu trên nhận thấy đối với bị cáo cần có mức hình phạt thật nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội và cũng có tác dụng răn đe, trấn áp tội phạm, phòng ngừa chung cho xã hội.
[5] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa, bị hại Thạch H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo là người thuộc hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Đối với người thanh niên tên L và người đi cùng L do không biết rõ họ, tên địa chỉ nên chưa được xử lý, do vậy, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sóc Trăng tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.
[9] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng là có căn cứ phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Hoàng D, phạm tội Cố ý gây thương tích.
2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng D 3 (ba) năm tù. Thời hạn thi hành án phạt tù tính từ ngày 05/8/2020.
3. Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Thạch H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Nguyễn Hoàng D được miễn.
5. Báo cho bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 108/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 108/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về