TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH V
BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 99/2020/HS-ST ngày 29 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 106/2020/HSST- QĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:
Lò Văn B, sinh ngày 15/10/1999; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản L, xã Xuân Lao, huyện M, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn P và bà Lường Thị H; vợ: Quàng Thị N; có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự; Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2020 cho đến nay (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Ngân- Trợ giúp viên pháp lý- Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh V (có mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn T, sinh năm 1998;
trú tại: Bản Nà Heo, xã Chiềng Pha, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 28/04/2020, Lò Văn B làm thợ xây ở thành phố V, tỉnh V đang đi chơi ở khu vực vỉa hè đường Quốc lộ 2B, thuộc địa phận phường L, thành phố V, tỉnh V thì nhận được điện thoại của Lò Văn T làm thợ xây ở khu 16, phường L, thành phố V, tỉnh V. Qua điện thoại, T hỏi mua của B 500.000đ tiền ma tuý Heroine, B đồng ý và hẹn T đến khu vực đường Quốc lộ 2B, thuộc phường L, thành phố V mà B đang chơi để trao đổi, mua bán ma tuý. Sau đó, T thuê anh L chở xe ôm T từ đường Kim Ngọc, phường N, thành phố V đến chỗ hẹn với B để mua ma tuý. Khi anh L chở T đến đoạn đường Quốc lộ 2B, thuộc địa phận khu 16, phường L, thành phố V thì T nhìn thấy B. Lúc này T bảo anh L dừng xe rồi T đi bộ đến gặp B. Khi gặp nhau, T đưa cho B số tiền 500.000đ, B cầm tiền và đang định đưa cho T 01 gói ma tuý Heroine thì bị phát hiện, lập B bản bắt người phạm tội quả tang. Thu giữ: Tại tay trái của B 01 túi nilon bên trong chứa chất cục bột màu trắng, B khai là ma tuý Heroine mang đi bán cho T nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt quả tang. Tổ công tác niêm phong vào phong bì thư ký hiệu A1; thu giữ tại tay phải của B số tiền 500.000đ, B khai là tiền T đưa để mua ma tuý của B; tạm giữ của B 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO đã qua sử dụng.
Tại kết luận giám định số 1001A/KLGĐ ngày 02/05/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh V kết luận: Chất bột cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý có khối lượng 0,6502g (Không phảy sáu năm không hai gam, không kể bao bì) loại Heroine.
Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: A1 = 0,5908 gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”.
Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, Lò Văn B khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 26/04/2020, tại khu vực Gốc Vừng thuộc địa phận xã Định Trung, thành phố V, tỉnh V, B gặp và mua được của người nam giới tên là Thu 01 gói ma tuý Heroine với giá 500.000đ, số ma tuý này B đã lấy ra 1/3 để sử dụng, phần còn lại B cất giấu nếu ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Đến ngày 28/4/2020, B đang bán số ma tuý này cho Lò Văn T với giá 500.000đ nhưng chưa kịp đưa cho T thì bị phát hiện bắt quả tang.
Tại Cáo trạng số: 111/CT-VKSNDTPVY ngày 28/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố bị cáo Lò Văn B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn B khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, anh Lò Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đã khai nhận: Ngày 28/4/2020 hỏi mua của Lò Văn B 01 gói ma túy với giá 500.000đ để sử dụng nhưng T mới đưa tiền, chưa kịp nhận ma túy của B thì bị phát hiện bắt quả tang.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lò Văn B từ 02 năm 06 tháng đến 02 năm 09 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,5908g ma túy Heroine cùng toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ thu giữ của Lò Văn B do phạm tội mà có; Tịch thu bán để sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO thu giữ của Lò Văn B sử dụng vào việc phạm tội.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa lớp 1 nên nhận thức còn hạn chế.
Bị cáo không bào chữa, tranh luận khác. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau [1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Lò Văn B tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 28/4/2020, tại khu vực đường quốc lộ 2B thuộc khu hành chính 16, phường L, thành phố V, tỉnh V, Lò Văn B bán trái phép 01 gói ma túy Heroine cho Lò Văn T với giá 500.000đ thì bị phát hiện bắt quả tang. Tang vật thu giữ của B 01 gói giấy nhỏ bên trong có 0,6502g chất bột màu trắng qua giám định là ma túy Heroine.
Hành vi nêu trên của bị cáo Lò Văn B đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Nội dung điều luật quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; gây ra một lớp người nghiện trong xã hội làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.
Bị cáo là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự. Trong vụ án này, hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ là thu lời bất chính. Hiện nay trên địa bàn thành phố V các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.
Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năm hối cải”, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật còn hạn chế nên được giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.
[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo không có tài sản và nghề nghiệp nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[5] Đối với những người có liên quan đến vụ án gồm:
- Đối với người đàn ông tên là Thu bán ma túy cho B ngày 26/4/2020 nhưng B không biết về lai lịch, thông tin của Thu. Do đó cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra để xử lý.
- Đối với Lò Văn T mua ma túy của B để sử dụng. Tuy nhiên T mới đưa tiền nhưng chưa kịp nhận ma túy của B thì bị phát hiện bắt quả tang nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với T về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng pháp luật.
- Đối với anh L (là người chạy xe ôm) cho T mượn điện thoại để gọi cho B rồi sau đó anh Quý chở T đến gặp B để mua ma túy. Quá trình điều tra xác định anh L không biết, không liên quan đến việc mua bán ma túy giữa B và T nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng pháp luật.
[6] Về vật chứng:
- Đối với 0,5908g ma túy Heroine và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Lò Văn B dùng để liên lạc mua bán ma túy và số tiền 500.000đ thu giữ của B do pham tội mà có. Do đó cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lò Văn B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Lò Văn B 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 28/4/2020).
Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
- Tịch thu tiêu hủy 0,5908g ma túy Heroine và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định.
- Tịch thu số tiền 500.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO để bán sung quỹ Nhà nước do Lò Văn B phạm tội mà có (có đặc điểm như B bản giao nhận vật chứng ngày 14/8/2020).
Về án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lò Văn B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án 108/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 108/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về