TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 110/2020/TLST- HS ngày 07 tháng 10 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2020/QĐXXST- HS ngày 27/10/2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Đức C, sinh ngày 25/2/1963 tại Tuyên Quang.
Nơi cư trú: Tổ dân phố 7, phường P, thành phố Q, Tuyên Quang; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Nguyễn Đức H và bà: Trần Thị N (đều đã chết); Vợ: Triệu Kim O (đã chết); con: có 01 người con, sinh năm 1986; tiền án: Không
* Tiền sự: Ngày 09/01/2020 Công an thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 539 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy (tàng trữ 0,025g Heroine), phạt tiền 1.000.000 đồng;
* Nhân thân:
- Ngày 25/10/1988 Toà án nhân dân tỉnh Hà Tuyên nay là Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, xử phạt Nguyễn Đức C 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản riêng công dân (bản án số 58/ST-TA);
- Ngày 14/10/1992 Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang nay là thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt Nguyễn Đức C 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản (bản án số 49/ST-HS);
- Ngày 04/8/1994 Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang (nay là thành phố Q), tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 24 tháng tù, về tội Gây rối trật tự công cộng. Tổng hợp với thời gian còn lại của Bản án số 49/ST-HS ngày 14/10/1992 là 03 tháng 25 ngày, buộc bị cáo phải chấp hành là 27 tháng 25 ngày tù, thời hạn tính từ ngày 13/5/1994 (bản án số 44/ST-HS);
- Ngày 17/7/2017 Công an thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 291, về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy, phạt 2.250.000 đồng.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/7/2020 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 20/6/2020, bị cáo Nguyễn Đức C là người sử dụng ma túy, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22H8 - 9889 (xe mô tô của bị cáo) đến khu vực Bến xe khách thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Tại khu vực Bến xe thành phố Q, bị cáo gặp và mua được 01 gói Heroine gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng của một người đàn ông, không biết tên, địa chỉ, với số tiền 100.000 đồng. Bị cáo cất gói Heroine vào trong túi quần đang mặc, điều khiển xe mô tô về nhà lấy một ít Heroine trong gói vừa mua được ra sử dụng bằng hình thức đốt hít vào cơ thể. Số Heroine còn lại, bị cáo gói lại và tiếp tục cất vào túi quần đang mặc. Đến khoảng 16 giờ 45 phút ngày 21/6/2020, bị cáo mang theo gói Heroine, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22H8 - 9889 định đi mua xilanh và nước cất để pha chế sử dụng, khi đi đến khu vực tổ 15, phường P, thành phố Q, thì bị Tổ công tác Công an phường P phát hiện, lập biên bản sự việc hồi 17 giờ 10 phút cùng ngày, thu giữ 01 gói Heroine của bị cáo.
Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo Nguyễn Đức C, kết quả (+) dương tính có chất ma túy trong cơ thể. Bị cáo Nguyễn Đức C khai nhận đã sử dụng ma túy vào ngày 20/6/2020.
Tại Kết luận giám định số 257/GĐKTHS ngày 24/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của Nguyễn Đức C) gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine (Hêrôin); khối lượng 0,038g (Không phẩy không ba tám gam).
Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 110/CT-VKSTP ngày 05 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Đức C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 05 tháng tù; Áp dụng: Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo (khối lượng Heroine còn lại sau khi lấy mẫu giám định); Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Đức C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi vi phạm của mình.
Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức C không kêu oan, tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản vụ việc; Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 10 phút ngày 21/6/2020, tại tổ 15, phường P, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Nguyễn Đức C có có hành vi tàng trữ trái phép 0,038g (không phẩy không ba tám gam) Heroine, mục đích để sử dụng. Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đây là tình tiết định tội đối với bị cáo. Do vậy hành vi của bị cáo cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý , xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt: Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị tòa án xét xử và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không lấy làm bài học rút kinh nghiệm mà lại tiếp tục vi phạm pháp luật, qua đó đánh giá về ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Q. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.
Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q.
[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 20/6/2020 của bị cáo Công an phường P, thành phố Q đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 2307 ngày 23/6/2020, phạt cảnh cáo; Đối với người đàn ông theo bị cáo khai nhận là người bán Heroine cho bị cáo vào ngày 20/6/2020 tại khu vực Bến xe khách thành phố Q, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra xử lý. Vì vậy Hội đồng xet xử không xem xét.
[7] Về vật chứng: Đối với khối lượng ma tuý Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo (khối lượng còn lại sau khi giám định) đã được niêm phong theo quy định là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (03/7/2020).
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, bên trong có Heroine Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo (khối lượng Herine còn lại sau khi lấy mẫu giám định).
Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Q và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q ngày 09/10/2020.
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án 10/11/2020.
Bản án 108/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 108/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về