Bản án 108/2018/HNGĐ-ST ngày 14/06/2018 về xin ly hôn 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 108/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 14 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 267/2018/TLST-HNGĐ, ngày 27 tháng 3 năm 2018 về việc “xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 312/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị Th, sinh năm: 1990, (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp Cái N, thị trấn Năm C, huyện Năm C, tỉnh Y.

- Bị đơn: Anh Phạm Duy T, sinh năm: 1985, (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Số 132, Trần Quang Kh, khóm 5, phường 5, thành phố C, tỉnh Y.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 27/3/2018 và tại phiên tòa, chị Đoàn Thị Th trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Duy T xác lập quan hệ hôn nhân và chung sống vợ chồng vào năm 2009, đến năm 2010 mới đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Năm C, huyện Năm C, tỉnh Y. Hôn nhân được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có tổ chức hỏi cưới theo phong tục, tập quán và được gia đình hai bên chấp thuận.

Quá trình chung sống, chị cho rằng kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn nhưng anh T không quan tâm, lo lắng cho mẹ, con chị, từ đó vợ, chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống; tình cảm vợ chồng dần dần phai nhạt nên chị và anh T tự ly thân nhau khoảng 06 năm nay. Do đó, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Duy T.

- Về con chung: Chị Th xác định chị và anh T có 01 người con chung tên Phạm Phước Th1, sinh ngày 18/6/2010, hiện cháu Th1 đang được chị nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Th xác định vợ, chồng chị không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Th khai giữa vợ, chồng chị không thiếu nợ ai và không ai nợ lại vợ, chồng chị.

Đối với anh Phạm Duy T, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần đến phiên tòa để tham gia hòa giải và xét xử vụ án thông qua mẹ ruột anh T là bà Nguyễn Kim K nhận thay và cam kết giao lại nhưng anh T vẫn không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập anh T nhiều lần đến phiên tòa để tham gia hòa giải và xét xử vụ án thông qua mẹ ruột anh T nhận thay và cam kết giao lại nhưng anh T vẫn không có ý kiến phản hồi, đồng thời cũng không có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Đoàn Thị Th và anh Phạm Duy T xác lập quan hệ vợ, chồng, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán, có đăng ký kết hôn vào năm 2010 và đủ điều kiện kết hôn theo luật định nên hôn nhân được chấp nhận là hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quá trình chung sống anh, chị có nhiều điểm bất đồng, không quan tâm, chăm sóc, cảm thông và chia sẻ lẫn nhau. Xét mâu thuẫn thực tế là có nhiều mâu thuẫn, nhận thấy về mục đích hôn nhân không đạt.

Bởi lẽ, trong cuộc sống gia đình, anh, chị gặp khó khăn về kinh tế, nhưng anh T không quan tâm đến cuộc sống gia đình, bỏ mặc vợ, con dẫn đến việc gây bất hòa trong cuộc sống, làm ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng nên anh, chị mỗi người sống một nơi, có cuộc sống và mối quan hệ riêng tư, không quan tâm, giúp đở lẫn nhau. Thực tế anh, chị cũng không còn chung sống vợ, chồng nhiều năm nay. Thời gian này không ai có biện pháp gì để khắc phục tình trạng mâu thuẫn và cũng không liên lạc hay quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau. Bên cạnh đó, chị Th cương quyết ly hôn, nếu không được xem xét chấp nhận cho chị ly hôn thì chị cũng không đoàn tụ, chung sống với anh T được nữa. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận cho chị Th được ly hôn với anh T là có căn cứ.

[3] Về con chung: Chị Th xác định chị và anh T có 01 người con chung tên Phạm Phước Th1, sinh ngày 18/6/2010, hiện cháu Th1 đang được chị nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu Th1 hiện do chị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, đồng thời nguyện vọng của cháu Th1 muốn được chung sống với chị Th nên căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu Th1 cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng và không xem xét nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn có cơ sở.

[4] Về tài sản chung: Chị Th xác định vợ, chồng chị không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập giải quyết;

[5] Về nợ chung: Chị Th khai vợ, chồng chị không thiếu nợ ai và không ai nợ lại vợ, chồng chị nên không đặt ra xem xét.

[6] Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Đoàn Thị Th về việc xin ly hôn anh Phạm Duy T.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Phước Th1, sinh ngày 18/6/2010 cho chị Th tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh T được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Th xác định không có nên không đặt ra xem xét;

4. Về nợ chung: Chị Th khai không thiếu nợ ai và không ai nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

5. Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và gia đình, chị Đoàn Thị Th phải chịu 300.000đ. Ngày 27 tháng 3 năm 2018, chị Th đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số 545 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C nên được đối trừ chuyển thu sung công quỹ nhà nước.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị Đoàn Thị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Duy T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2018/HNGĐ-ST ngày 14/06/2018 về xin ly hôn 

Số hiệu:108/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về