Bản án 108/2017/HSST ngày 31/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 108/2017/HSST NGÀY 31/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2017, tại trụ Ủy ban nhân xã Vĩnh Tân, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 100/2017/HSST ngày 08 tháng 8 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2017/HSST-QĐ ngày 17 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

ơng Tn Đ, sinh năm 1994, tại: Bình Dương; nơi đăng ký NKTT: Ấp 4, xã VT, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá  6/12; tiền án, tiền sự: Không; con ông Vương Ngọc M, sinh năm1963 và bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1966; bị cáo chưa có vợ con; bị cáo bị bắttạm giam từ ngày 19/4/2017 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Lê Văn C, sinh năm 1990; địa chỉ: Ấp 4, xã TVH, thị xã TU, tỉnh

Bình Dương; vắng mặt.

- Ông Lê Hồng P, sinh năm 1994; địa chỉ: Khu phố TL, phường TH, thịxã TU, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vương Tấn Đ, Lê Văn C, Lê Hồng P, Huỳnh Thanh Q sử dụng ma túy từ khoảng tháng 01/2017.

Khoảng 21 giờ ngày 18/4/2017, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân có các đối tượng sử dụng ma túy tại nhà của Vương Tấn Đ thuộc ấp 4, xã Vĩnh Tân, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, lực lượng Công an xã Vĩnh Tân tiến hành kiểm tra hành chính và phát hiện tại nhà Đ có các đối tượng gồm: Vương Tấn Đ, Lê Văn C, Lê Hồng P, Huỳnh Thanh T có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và phát hiện trong túi quần bên trái của C đang mặc có một gói thuốc lá hiệu Hòa Bình bên trong có chứa thực vật khô (hoa, lá, cành). Nghi vấn là ma túy nên lực lượng Công an xã Vĩnh Tân tiến hành mời C, Đ, P, Q về trụ sở làm việc.

Qua làm việc Lê Văn C khai: Một gói thuốc hiệu Hòa Bình bên trong có chứa thực vật khô (hoa, lá, cành) nêu trên là ma túy, C mua của Vương Tấn Đ với giá 50.000 đồng. Công an xã VT tiến hành biên bản kiểm tra hành chính và tạm giữ vật chứng gồm một gói thuốc hiệu Hòa Bình bên trong có chứa thực vật khô (hoa, lá, cành), số tiền 20.000 đồng.

Công an xã VT chuyển giao hồ sơ cùng vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên xử lý theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiến hành trưng cầu giám định đối với thành phần thực vật khô (hoa, lá, cành) đã thu giữ nêu trên. Kết quả giám định số 215/MT – PC54 ngày 27/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu thực vật gửi giám định có trọng lượng là 1,5368 gam có Delta – 9 – tetrahydrocanabinol và các đồng phân.

Vương Tấn Đ khai: Từ khoảng tháng 01/2017 đến tháng 4/2017, Đ nhiều lần mua ma túy của một đối tượng tên Nh về để sử dụng và bán lại cho Lê Văn C sử dụng. Ngày 15/4/2017, Đ điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đến khu vực chợ Phú Chánh gặp Nh và hỏi mua ma túy với giá 100.000 đồng, Nh đồng ý và đưa cho Đ ma túy có dạng hoa, lá, cành khô được cuộn trong tờ giấy tập học sinh có đường kính khoảng 04 cm và dài khoảng 10 cm. Sau đó, Đ đem số ma túy về nhà lấy ra sử dụng một ít, số ma túy còn lại Đ cất giấu tại nhà. Đến khoảng 18 giờ ngày 18/4/2017, Lê Văn C điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đến nhà của Đ hỏi mua 50.000 đồng ma túy. Đ đồng ý và lấy số ma túy còn lại bỏ vào vỏ bao thuốc hiệu Hòa Bình có sẵn ở nhà đưa cho C, C đưa cho Đ50.000 đồng, sau đó C bỏ một gói thuốc hiệu Hòa Bình mà Đ vừa đưa vào trong túi quần bên trái C đang mặc và ở lại nhà Đ chơi. Lê Hồng P có mang ma túy đến nhà Đ và rủ Đ, C cùng sử dụng. Sau khi Phương, Đ, C sử dụng ma túy xong thì Huỳnh Thanh T cũng đến nhà Đ chơi, P nhờ T mượn xe mô tô của C đi theo P về nhà để P trả xe cho gia đình và nhờ T chở P quay lại nhà Đ chơi. Sau khi T và P đi, Đ sử dụng số tiền 50.000 đồng từ việc bán ma túy cho C, do mua thuốc lá và nước uống hết 30.000 đồng, còn 20.000 đồng Đ cất trong túi quần bên phải đang mặc, sau đó Đ đem nước về nhà uống cùng C. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, lực lượng Công an xã Vĩnh Tân tiến hành kiểm tra C và phát hiện một góithuốc hiệu Hòa Bình bên trong có chứa thực vật khô (hoa, lá, cành) trong túi quần bên trái C đang mặc. Lúc này thì T chở P về đến nhà Đ nên Công an xã Vĩnh Tân mời Đ, C, P, T đến trụ sở làm việc. Từ khoảng tháng 02/2017 đến ngày 18/4/2017,  Đ đã bán ma túy cho C được 04 lần, trong đó 02 lần Đ bán ma túy cho C với giá 100.000 đồng/lần, 02 lần Đ bán ma túy cho C với giá 50.000 đồng/lần. Tổng số tiền Đ bán ma túy cho C là 300.000 đồng.

Lê Văn C khai: Khoảng 18 giờ ngày 18/4/2017, C điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đến nhà của Đ hỏi mua 50.000 đồng ma túy về để sử dụng. Đ đồng ý và lấy một gói thuốc hiệu Hòa Bình bên trong có chứa thực vật khô (hoa, lá, cành) đưa cho C, C đưa cho Đ 50.000 đồng, sau đó C bỏ một gói thuốc hiệu Hòa Bình bên trong có chứa thực vật khô (hoa, lá, cành) nêu trên vào trong túi quần bên trái C đang mặc và ở lại nhà Đ chơi. Lúc này, tại nhà Đức Lê Hồng P có mang ma túy đến nhà Đ và rủ Đ, C cùng sử dụng. Sau khi P, Đ, C sử dụng ma túy xong thì Huỳnh Thanh T cũng đến nhà Đ chơi và P nhờ T mượn xe mô tô của C đi theo P về nhà để P trả xe cho gia đình và nhờ T chở Phương quay lại nhà Đ chơi. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, lực lượng Công an xã Vĩnh Tân tiến hành kiểm tra C và phát hiện một gói thuốc hiệu Hòa Bình bên trong có chứa thực vật khô (hoa, lá, cành) trong túi quần bên trái C đang mặc. Công an xã Vĩnh Tân mời Đ, C, P, T đến trụ sở làm việc. C mua ma túy của Đ được 04 lần, giá mỗi lẫn mua từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng, C mua ma túy của Đ cách ngày 18/4/2017 được khoảng một tháng, địa điểm C mua ma túy của Đ là tại nhà của Đ.

Lê Hồng P khai: Số ma túy P đem đến nhà Đ để cùng Đ, C sử dụng vào ngày 18/4/2017 là của P mua của một đàn ông tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. P không có mua ma túy của Đức.

Đối với hành vi mua ma túy ngày 18/4/2017 của Lê Văn C từ Vương Tấn Đ để về sử dụng, căn cứ kết luận giám định thì số ma túy C mua của Đ chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với C về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, Công an thị xã Tân Uyên đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 63/QĐ-XPVPHC ngày 13/7/2017, xử phạt số tiền1.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với C.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Hồng P, ngày13/7/2017, Công an thị xã Tân Uyên đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 64/QĐ-XPVPHC, xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sửdụng trái phép chất ma túy”.

Đối với đối tượng tên Nh đã bán và giao ma túy cho Đ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã cho Vương Tấn Đ nhận dạng Nguyễn Chí Phong (tên gọi khác Nh), sinh năm 1991; địa chỉ: Ấp PT, xã PC, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Vương Tấn Đ nhận dạng Nguyễn Chí P chính là Nh, là người bán ma tuý cho Đ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã tiến hành làm việc với Nguyễn Chí P và cho đối chất với Vương Tấn Đ, kết quả Nguyễn Chí P không thừa nhận bán ma tuý cho Đ và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên không thu thập được chứng cứ chứng minh hành vi của Nh. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên không đề cập, xử lý đối với Nh.

Bản Cáo trạng số 101/QĐ - KSĐT ngày 03/8/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Vương Tấn Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng và xác định sau khi phạm tội bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có ông ngoại Lê Văn H là liệt sĩ nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình áp dụng Điểm b Khoản 2  Điều 194, Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vương Tấn Đ mức hình phạt từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 41 Bộ luậtHình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

Buộc bị cáo Vương Tấn Đ nộp số tiền thu lợi bất chính là 300.000 đồng. Đối với trọng lượng 0,7991g mẫu vật sau giám định đựng trong 01 bì thưđã được niêm phong dán kín có ký hiệu 215M/PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Delta-9- tetrahydrocanabinol và các đồng phân là mẫu vật hoàn trả sau giám định theo bản kết luận giám định 215/MT-PC54 ngày 27/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Hoà Bình cần tịch thu, tiêu hủy.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 20.000 đồng.

Bị cáo Đ đã khai nhận hành vi bán ma túy cho Lê Văn C nhiều lần như nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt phù hợp cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi,quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Vương Tấn Đ tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai báo trước cơ quan điều tra, trước sau thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như về số lần mua bán ma túy và vật chứng thu giữ trong vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Bị cáo Vương Tấn Đức nhiều lần bán ma túy cho Lê Văn Cồ, trong đó lần bán ma tuý vào ngày 18/4/2017 thu giữ trọng lượng ma tuý 1,5368 gram  có Delta-9-tetrahydrocanabiol đã đủ yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây nên sự nghiện ma tuý cho người khác, bị cáo nhận thức được tính nguy hiểm và trái pháp luật hình sự do hành vi mình thực hiện, thấy trước tác hại của việc bán trái phép chất ma túy để cho người khác sử dụng, làm cho bản thân họ phụ thuộc vào ma túy, dễ tiến gần đến tội phạm và hiểm họa bệnh tật, bị cáo đã cố ý phạm tội và mong muốn thực hiện được hành vi bán ma túy, do đó cần có mức hình phạt tương xứng để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên khi quyết định hình phạtcần xem xét toàn diện các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có ông ngoại Lê Văn H là liệt sĩ nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[3] Đối với hành vi Lê Văn C, Công an thị xã Tân Uyên đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 63/QĐ-XPVPHC ngày 13/7/2017, xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, là phù hợp.

[4] Đối với Lê Hồng P, Công an thị xã Tân Uyên đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 64/QĐ-XPVPHC ngày 13/7/2017, xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng:

Bị cáo Vương Tấn Đ xác định số tiền thu lợi từ việc bán ma tuý cho C là 300.000 đồng nên buộc bị cáo phải nộp số tiền trên để sung quỹ Nhà nước.

Đối với trọng lượng 0,7991g mẫu vật sau giám định đựng trong 01 bì thư đã được niêm phong dán kín có ký hiệu 215M/PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Delta-9- tetrahydrocanabinol và các đồng phân là mẫu vật hoàn trả sau giám định theo bản kết luận giám định 215/MT-PC54 ngày 27/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Hoà Bình cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với số tiền 20.000 đồng thu giữ của bị cáo Đ, bị cáo xác định là tiền có được từ việc bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[6] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vương Tấn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 194; Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Vương Tấn Đ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/4/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Buộc bị cáo Vương Tấn Đ nộp số tiền thu lợi bất chính là 300.000 đồng. Tịch thu, tiêu huỷ trọng lượng 0,7991g mẫu vật sau giám định đựng trong 01 bì thư đã được niêm phong dán kín có ký hiệu 215M/PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Delta-9- tetrahydrocanabinol và các đồng phân là mẫu vật hoàn trả sau giám định theo bản kết luận giám định 215/MT-PC54 ngày 27/4/2017 của Phòng kỹ thuật hìnhsự Công an tỉnh Bình Dương và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Hoà Bình.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 20.000 đồng.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Vương Tấn Đ phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan người vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2017/HSST ngày 31/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về