Bản án 107/2020/HSST ngày 21/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN - TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 107/2020/HSST NGÀY 21/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 116/2020/HSST ngày 05/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2020/QĐXXST-HS ngày 09/10/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: DƯƠNG QUANG H, sinh năm 1991 tại thành phố Q, tỉnh B; Trú tại: Tổ A, khu vực B, phường T, TP. Q, tỉnh B; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Dương Hồng M, sinh năm 1959 và bà: Đinh Thị Thanh X, sinh năm 1966; Vợ, con: Chưa có; Tiền án:

- Ngày 27/8/2014, bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 27/02/2016.

- Ngày 21/02/2017, bị Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xử phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong vào ngày 03/3/2017.

- Ngày 07/8/2018, bị Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 22/01/2020.

Bị bắt tạm giam từ ngày 19/7/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Quy Nhơn.

- Bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1969 (Có mặt).

Nơi cư trú: Số nhà A đường C, phường G, TP. Q, tỉnh B.

2. Chị Lâm Thùy T, sinh năm 1993 (Có mặt).

Nơi cư trú: Số nhà A đường C, phường G, TP. Q, tỉnh B.

3. Chị Lý Thị Mỹ L, sinh năm 1998 (Có mặt).

Nơi cư trú: Số nhà A đường C, phường G, TP. Q, tỉnh B.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lâm Huyền Th, sinh năm 1996 (Vắng mặt). Nơi cư trú: Số nhà S, đường L, TP. Q, tỉnh B.

2. Anh Lê Quang V, sinh năm 1991 (Vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn A, xã N, TX AN, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 14/7/2020, bị cáo Dương Quang H đi dạo bộ tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khoảng 02h20 ngày 15/7/2020, bị cáo H đi ngang qua nhà bà Nguyễn Thị Y ở Số nhà A đường C, phường G, TP. Q, tỉnh B thấy nhà đang xây dở, cửa ra vào ban công tầng 01 để trống, H trèo lên cái thang dựng sẵn đột nhập vào nhà rồi đi xuống tầng trệt lấy điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Prime gắn SIM số 0392657252 của bà Y. Sau đó, đi vào phòng bếp lấy điện thoại di động hiệu Iphone 6s plus gắn SIM số 0972395080 của chị Lâm Thùy T và Xiaomi Mi8 gắn SIM1 số: 0368211018, SIM2 số: 0363091603 của chị Lý Thị Mỹ L. Tài sản trộm được H giấu vào túi quần rồi theo lối cũ thoát ra ngoài.

Khoảng 10h00 cùng ngày, thông qua mạng facebook, H bán 03 điện thoại trên cho anh Lâm Huyền Th với giá 3.500.000 đồng. Số tiền này H đã tiêu xài cá nhân hết.

Trước khi bán các điện thoại, H đã tháo SIM giữ lại. Sau đó, H lắp lần lượt 04 SIM số: 0392657252, 0972395080, 0368211018, 0363091603 vào điện thoại Samsung J7 plus của mình để kiểm tra thì phát hiện thuê bao số 0972395080 của chị T có đăng ký ví điện tử MOMO. H dùng sim này nhắn tin đến tổng đài Viettel để lấy thông tin cá nhân của chị T, có được thông tin H đăng nhập vào tài khoản ví điện tử MOMO của chị T để sử dụng. Tài khoản ví điện tử MOMO của chị T liên kết với tài khoản Ngân hàng Vietcombank số 0051000512036 có số dư 8.600.827 đồng, H chuyển 8.550.000 đồng từ tài khoản Ngân hàng sang ví điện tử MOMO, sau đó bị cáo chuyền số tiền 4.990.000 đồng từ ví điện tử MOMO của chị T vào website www.socvip9.clup để chơi game và thua hết.

Sáng ngày 15/7/2020, bà Y, chị L và chị T ngủ dậy phát hiện tài sản bị mất nên đến Công an phường G, TP. Q trình báo sự việc. Ngày 16/7/2020, chị T đăng ký lại SIM số: 0972395080 và đăng nhập lấy lại tài khoản ví điện tử MOMO nên H không sử dụng được số tiền còn lại trong tài khoản.

Ngoài ra, H còn khai nhận đã lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus 16Gb của một nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) nằm ngủ tại Công viên Chế Lan Viên vào tối ngày 16/7/2020. Sáng ngày 17/7/2020, Hiếu liên lạc với Th bán chiếc điện thoại này với giá 1.100.000 đồng.

Ngày 19/7/2020, Th bán chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Mi8 cho Lê Quang V với giá 2.800.000 đồng.

Ngày 29/6/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Quy Nhơn kết luận: Điện thoại di động hiệu Iphone 6s plus 64Gb trị giá 2.500.000 đồng; điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grand Prime trị giá 600.000 đồng; điện thoại di động hiệu Xiaomi Mi8 trị giá 2.800.000 đồng; điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus 16Gb trị giá 1.500.000 đồng, tổng giá trị tài sản là: 7.400.000 đồng.

Cơ quan CSĐT - Công an TP. Quy Nhơn đã tạm giữ: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 plus; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s plus 64Gb; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy Grand Prime; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus 16Gb; 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Mi8 và đã xử lý vật chứng trả lại điện thoại cho các bị hại. Hiện thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 plus.

Về dân sự: Bà Nguyễn Thị Y, chị Lý Thị Mỹ L đã nhận lại tài sản. Gia đình bị cáo Dương Quang Hiếu đã bồi thường cho chị Lâm Thùy T số tiền 4.990.000 đồng; đã hoàn trả lại cho anh Lâm Huyền Th số tiền 2.700.000 đồng.

Bà Y, chị L, chị T và anh Th không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

- Tại bản cáo trạng số 115/CT-VKS ngày 05/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố Dương Quang H về tội: “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Dương Quang H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Dương Quang H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Dương Quang H từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước điện thoại Samsung Galaxy J7+ đang thu giữ của bị cáo do bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Với ý định đi dạo xem nhà nào sơ hở thì đột nhập vào bên trong trộm cắp tài sản đem bán lấy tiền tiêu xài. Vào rạng sáng ngày 15/7/2020, bị cáo Dương Quang H đã đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị Y chiếm đoạt của bà Y 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grand Prime trị giá 600.000 đồng; chiếm đoạt của chị Lý Thị Mỹ L điện thoại di động hiệu Xiaomi Mi8 trị giá 2.800.000 đồng; chiếm đoạt của chị Lâm Thùy T điện thoại di động hiệu Iphone 6S plus 64Gb trị giá 2.500.000 đồng. Ngoài ra bị cáo còn chiếm đoạt số tiền 4.990.000 đồng trong ví điện tử MOMO của T. Bị cáo Dương Quang H đã bị Tòa án đưa ra xét xử nhiều lần về tội “Trộm cắp tài sản”, lẽ ra sau khi chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo phải chịu khó tìm việc làm để có thu nhập nuôi sống bản thân, biết tu dưỡng, rèn luyện để trở thành công dân tốt, nhưng do tham lam, xem thường pháp luật, bản thân chây lười lao động, bị cáo tiếp tục phạm tội. Tài sản bị cáo chiếm đoạt của các bị hại có tổng giá trị 10.890.000 đồng, bị cáo hiện “tái phạm nguy hiểm” chưa được xóa án tích tiếp tục phạm tội do cố ý. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Dương Quang H về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

Bị cáo H còn khai nhận đã lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus 16Gb của một nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) nằm ngủ tại Công viên Chế Lan Viên vào tối ngày 16/7/2020. Sáng ngày 17/7/2020, bị cáo đã bán điện thoại này giá 1.100.000 đồng và tiêu xài hết. Hiện nay chưa xác định được bị hại, cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đã tách hành vi này để điều tra xử lý sau nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương, hành vi đột nhập vào nhà trộm cắp tài sản của bị cáo rất táo bạo, liều lĩnh vì dễ chuyển hóa tội phạm khác nặng hơn nên phải xử phạt nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên cũng xem xét: Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, bị cáo tác động cho gia đình bồi thường cho bị hại để khắc phục hậu quả, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo an tâm cải tạo tốt.

[5] Về bồi thường thiệt hại:

- Các bị hại Nguyễn Thị Y, Lý Thị Mỹ L, Lâm Thùy T đã nhận lại điện thoại bị chiếm đoạt, gia đình bị cáo H cũng hoàn trả cho chị T 4.990.000 đồng, các bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Anh Lâm Huyền Th mua của bị cáo 03 điện thoại di động do bị cáo trộm cắp của các bị hại số tiền giá 3.500.000 đồng, các điện thoại hiện thu hồi trả lại cho bị hại, gia đình bị cáo H và anh Th đã thỏa thuận hoàn trả cho anh Th số tiền 2.700.000 đồng, anh Th đã nhận đủ tiền và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Sau khi mua điện thoại của bị cáo Dương Quang H, anh Lâm Huyền Th có bán cho anh Lê Quang V 01 điện thoại Xiaomi Mi8 với giá 2.800.000 đồng, điện thoại đã bị thu hồi trả lại cho bị hại, anh Th đã hoàn trả lại tiền mua điện thoại cho anh V, anh V không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.

[6] Xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra đã thu giữ của bị cáo 01 điện thoại Samsung J7 plus. Xét thấy, bị cáo sử dụng điện thoại này làm phương tiện chiếm đoạt số tiền 4.990.000 đồng của chị Lâm Thùy T, điện thoại hiện có giá trị kinh tế nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Vấn đề khác: Đối với anh Lâm Huyền Th có hành vi mua 03 điện thoại của bị cáo Dương Quang H, còn Lê Quang V có hành vi mua lại chiếc điện thoại Xiaomi Mi8 từ anh Lâm Huyền Th nhưng họ đều không biết tài sản này do bị cáo H phạm tội mà có nên anh Th, anh V không bị khởi tố hình sự là phù hợp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Dương Quang H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Dương Quang H 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Điện thoại Samsung Galaxy J7+ màu đen, số IMEI 1: 352808092465640; số IMEI 2: 352809092465648 (đối với sim điện thoại thì tiêu hủy) Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn.

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Dương Quang H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HSST ngày 21/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:107/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về