TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 61/2020/TLST- HS ngày 06 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2177/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
Lê Văn H; Sinh ngày 27 tháng 11 năm 1995 tại tỉnh Quảng Nam; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: Thôn V2, xã ĐB, thị xã B, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Phụ xe; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con Lê Văn H và bà Phạm Thị Tuyết N; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 30/8/2019. Có mặt.
Người bào chữa: Luật sư Đặng Quốc Hưng- Công ty luật TNHH Đại Việt thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Phạm Dương Hoàng Ái T; Sinh năm 1996. Thường trú: Ấp B, xã V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 30/8/2019 tại trước nhà số 76 Quốc lộ 1A, Khu phố 3, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức kiểm tra, bắt quả tang Lê Văn H đang điều khiển xe gắn máy biển số 63B5-299.16 có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ trong quần Soọc Jean phía trước bên trái mà H đang mặc 01 gói thuốc lá hiệu White Horse bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,2437gam, loại Methamphetamine); Thu giữ trong cốp xe gắn máy biển số 63B5-299.16, 01 giỏ xách màu đen bên trong có: 01 hộp giấy màu đỏ hiệu Ginseng bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4617 gam, loại Methamphetamine), 01 gói nylon màu đen bên trong có 04 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 33,9644gam, loại Methamphetamine).
Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 1688/KLGĐ-H ngày 06/9/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
Quá trình điều tra, Lê Văn H khai nhận: H làm nghề phụ lái xe khách và là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy từ tháng 02/2019. Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 28/8/2019, H đến khu vực Bến xe Miền Đông, mua 01 gói ma túy đá giá 500.000 đồng của người phụ nữ tên Trâm (không rõ lai lịch), mua xong H cất giấu trong gói thuốc lá hiệu White Horse để sử dụng. Đến chiều ngày 29/8/2019, H điện thoại cho Huy (tên gọi khác là Bình) và hẹn gặp nhau ở khu vực Khu Công nghiệp Vĩnh Lộc, quận Bình Tân. Khoảng 16 giờ cùng ngày, H đi xe máy grab đến điểm hẹn gặp Huy và được Huy điều khiển xe gắn máy biển số 63B5-299.16 chở đến khu vực đường Nguyễn Ảnh Thủ, quận 12 để nhận 03 loa nghe nhạc từ 01 người thanh niên (không rõ lai lịch). Sau khi nhận 03 loa nghe nhạc thì Huy có cho H 01 gói ma túy để nhờ gửi xe máy của Huy và loa ra Quảng Nam, H đồng ý. Sau đó, Huy điều khiển xe gắn máy chở H về gara nhà xe Minh Phương rồi Huy để lại xe máy và 03 loa nghe nhạc lại cho H và bắt xe đi về. Khoảng 15 phút sau, Huy điện thoại cho H nói có bịch ma túy Huy nhét dưới dè trước xe máy của Huy nhờ H ngày mai gửi ra cùng với xe máy và 03 loa nghe nhạc giúp Huy cho 01 người phụ nữ tên là “Má Sáu” ở địa chỉ Ngã 3 Lầu Sụp, xã Điện Thắng Bắc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, H đồng ý và lấy bịch ma túy ở xe ra bỏ vào trong túi cách màu đen của H cùng với số ma túy Huy cho H trước đó (gói ma túy này H cho vào trong hộp giấy màu đỏ hiệu Ginseng) rồi bỏ tất cả vào trong cốp xe máy biển số 63B5-299.16.
Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 30/8/2019, Hiệu điều khiển xe gắn máy biển số 63B5-299.16 chở theo 03 loa nghe nhạc đến Bến xe Miền Đông để gửi theo xe ô tô khách về Quảng Nam, khi H đi đến trước nhà 76 Quốc Lộ 1A khu phố 3, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức thì bị Công an Phường Hiệp Bình Phước bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy như đã nêu trên.
Đối với đối tượng tên Huy (tên gói khác là Bình, là người cho H ma túy và nhờ H vận chuyển trái phép chất ma túy). Kết quả điều tra xác định tên đầy đủ là Nguyễn Văn Bình, sinh năm 1988, hộ khẩu thường trú: thôn Quang Hiện, xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Hiện Bình không có mặt tại địa phương, ngày 11/12/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra thông báo truy tìm đối tượng Nguyễn Văn Bình, khi nào tìm được sẽ điều tra xử lý sau.
Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn H thừa nhận: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, phải bỏ tiền mua ma túy sử dụng nên khi Huy ma túy và nhờ bị cáo chuyển loa, xe máy và ma túy ra ngoài Quảng Nam cho người phụ nữ tên Má Sáu thì bị cáo đã nhận lời.
Tại bản cáo trạng số 40/CT-VKS-P1 ngày 05/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Văn H về các tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 250; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, luận tội và tranh luận: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Văn H về các tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 250; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 55 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 15 (mười lăm) năm đến 16 (mười sáu) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, từ 01 (một) năm đến 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội danh là từ 16 (mười sáu) năm đến 18 (mười tám) năm tù. Phạt bổ sung 10.000.000 (mười triệu) đồng đến 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng, sung Ngân sách nhà nước.
Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Luật sư Đặng Quốc Hưng phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tội danh cũng như điều khoản áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng quá nghiêm khắc; mong Hội đồng xét xử xem xét đây là vụ án ma túy có tính chất giản đơn, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một phần từ đặc trưng công việc phụ xe và do nhận thức sai lầm của bị cáo. Về nhân thân, bị cáo phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự, từng tham gia quân ngũ; quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị.
Bị cáo đồng ý với quan điểm bào chữa của luật sư và không tranh luận gì thêm.
Đại diện Viện kiểm sát đối đáp quan điểm bào chữa của luật sư: Do luật sư đồng ý với tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố nên đại diện Viện kiểm sát không tranh luận. Đối với các tình tiết giảm nhẹ hình phạt mà luật sư trình bày, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, áp dụng khi lượng hình.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; Luật sư của bị cáo, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Bị cáo Lê Văn H đã có hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy cho đối tượng Nguyễn Văn Bình để hưởng lợi và hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Thời điểm bắt quả tang thu giữ trên người bị cáo 01 gói thuốc lá hiệu White Horse bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu H khai nhận là mua của đối tượng Trâm (không rõ lai lịch) để sử dụng; thu giữ trong cốp xe bị cáo điều khiển 01 túi xách màu đên bên trong chứa 04 gói nylon chứa tinh thể không màu, H khai nhận là của Bình nhờ vận chuyển ra Quảng Nam và 01 hộp giấy màu đỏ hiệu Ginseng bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, H khai nhận được Bình trả công cho viện vận chuyển ma túy. Tại bản kết luận giám định số: 1688/KLGĐ-TT ngày 06/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: “Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2437g, loại Methamphetamine; tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4617g, loại Methamphetamine; tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m3 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 33,9644g, loại Methamphetamine”. Như vậy, khối lượng ma túy mà bị cáo vận chuyển trái phép là 33,9644g, loại Methamphetamine và khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ trái phép là 0,7054 gam Methamphetamine nên hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 30gam đến dưới 100gam” là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 0,1gam đến 5gam” là tình tiết định khung hình phạt tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo Lê Văn H là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự, trị an và an ninh xã hội, xâm phạm đến chính sách của nhà nước về đấu tranh phòng ngừa và loại bỏ ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ ma túy là loại biệt dược độc hại, đã, đang và sẽ hủy hoại cả về thể chất lẫn tinh thần của những người nghiện hút, do đó nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, vận chuyển, mua bán, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy và quy định trừng phạt nghiêm khắc với những ai cố tình vi phạm, nhưng vì mục đích tư lợi bất chính và thỏa mãn nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy nên bị cáo đã bất chấp các quy định pháp luật nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn dài nhằm mục đích giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt thể hiện ở việc bị cáo chưa có tiền án, tiền sự do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[6] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”, tuy nhiên do bị cáo chưa được thu lợi gì từ việc mua bán ma túy, hiện đang tạm giam không có thu nhập nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[7] Về vật chứng:
Đối với 03 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1688/19 (gói 1,2,3) bên ngoài có chữ ký của giám định viên Võ Anh Tuấn và Cán bộ điều tra Trần Xuân Thành; 01 bịch nylon màu đen; 01 hộp giấy màu đỏ hiệu Ginseng, 01 túi xách màu đen là vật chứng cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với một điện thoại di động hiệu Oppo màu xám; 03 loa nghe nhạc màu đen là công cụ, phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Đối với 01xe gắn máy hiệu Honda Vision, biển số 63B5-299.16, qua xác minh xe trên do bà Phạm Dương Hoài Ái T là vợ Nguyễn Văn Bình đứng tên chủ sở hữu. Khi hai bên xảy ra mâu thuẫn Bình lấy xe đi. Cuối tháng 8/2019, chị Trâm điện thoại nói Bình gửi xe ra quê ở Quảng Nam cho chị Trâm. Khi H đưa chiếc xe này cùng số ma túy ra nhà xe để gửi giúp Bình thì bị Công an phường Hiệp Bình Phước kiểm tra bắt quả tang. Tại Cơ quan điều tra, chị T nêu ý kiến đề nghị nhận lại chiếc xe trên. Xét, chị Trâm không biết và không tham gia việc vận chuyển trái phép chất ma túy của H nên trả lại chiếc xe trên cho chị T [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.
[9] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận tòa bộ quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các tình tiết giảm nhẹ và hoàn cảnh gia đình của bị cáo mà luật sư trình bày.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm b Khoản 3 Điều 250; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 55 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo: Lê Văn H 15 (mười lăm) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội danh là 16 (mười sáu) năm tù.
Thời hạn từ tính từ ngày 30/8/2019. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy: Đối với 03 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1688/19 (gói 1,2,3) bên ngoài có chữ ký của giám định viên Võ Anh Tuấn và Cán bộ điều tra Trần Xuân Thành; 01 bịch nylon màu đen; 01 hộp giấy màu đỏ hiệu Ginseng, 01 túi xách màu đen.
Tịch thu sung Ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xám;
03 loa nghe nhạc màu đen.
Trả lại bà Phạm Dương Hoài Ái T: 01xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda ; số loại: Vision, biển số 63B5-299.16, SK: RLHJF5814GY608838, SM: JF66E-0608869.
(Theo biên bản tang tài vật số 143/20 ngày 06/02/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tại kho 253/5 Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh) Áp dụng Khoản 2 Điều 135 và Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm;
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 107/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội vận chuyển và tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 107/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về